Chủ nghĩa cộng sản: mục đích hay phương tiện? (Nguyễn Thị Từ Huy)
Sự yếu kém về lý luận của Nguyễn Ái
Quốc là sự thật, chứ không phải do ông giả vờ yếu kém. Có nhiều lý do
cho sự yếu kém này, trong đó có một lý do căn bản : ông chọn hoạt động
thực tiễn và coi lý luận Marx-Lenin chỉ là một công cụ, một vũ khí, một
con đường để thực hiện giải phóng dân tộc. Ít ra là ở thời điểm
1920-1930 là như vậy. Sự phát triển về sau của chủ nghĩa Marx-Lenin
trong tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, vấn đề này sẽ được đề cập tới
một dịp khác. Dù sao, Võ Nguyên Giáp có thuật lại trong cuốn "Đường tới
Điện Biên Phủ" lời của Hồ Chí Minh : "Chủ nghĩa Marx-Lenin là cái gì lợi cho cách mạng thì làm
!". Câu này của Hồ Chí Minh cho thấy tính chất "phương tiện" của chủ
nghĩa Marx-Lenin trong quan niệm của ông.
Tạm
để sang một bên lối viết sử kiểu cộng sản chủ nghĩa để tập trung vào
một số chi tiết và sự việc được trình bày trong bài này, ta có thể thấy
rõ hơn về một vài điểm ở nhân vật Hồ Chí Minh và lịch sử đảng cộng sản
Việt Nam.
Tài
liệu mà Bá Ngọc tìm được trình bày một sự kiện xảy ra với Nguyễn Ái
Quốc vào thời kỳ ông đến Liên Xô lần thứ ba trong đời hoạt động của
mình, sau khi bị bắt giam ở Hồng Kông, từ 1934 - 1938. Sự kiện đó là
Nguyễn Ái Quốc trở thành đối tượng điều tra của Quốc tế cộng sản. Tháng
2/1936, Quốc tế cộng sản thành lập một Ban thẩm tra để xem xét trường
hợp Nguyễn Ái Quốc, vì các lý do :
-
Ban lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế
cộng sản một lá thư viết ngày 20/4/1935 trong đó kết tội Nguyễn Ái Quốc
đã phạm những sai lầm trong hoạt động cách mạng (1).
-
Vì sao Nguyễn Ái Quốc chỉ bị kết án nhẹ nhàng có hai năm tù giam, vì
sao sau hạn tù có thể trốn khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng, và bằng
cách nào sang được Nga ?
Ban thẩm tra đã làm việc và dẫn tới hai kết luận :
1. Nguyễn Ái Quốc đã phạm một số sai lầm trong hoạt động bí mật và cần khắc phục.
2. Không tìm ra chứng cứ về sự thiếu trung thành chính trị ở Nguyễn Ái Quốc. Vì thế hồ sơ Nguyễn Ái Quốc được hủy bỏ.
Ông
Bá Ngọc có các phân tích và kết luận của riêng ông, như ông đã trình
bày trong bài. Đối với cá nhân tôi, tài liệu này giúp tôi trả lời phần
nào một vài trong số rất nhiều câu hỏi về nhân vật được xem là phức tạp
vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại :
-
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản là một con đường giải phóng dân
tộc (nghĩa là một phương tiện giúp giải phóng dân tộc) hay là một mục
tiêu tối hậu mà cả dân tộc phải hướng tới ?
-
Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa yêu nước/ chủ nghĩa dân tộc,
hay là một người cộng sản đúng nghĩa, hay là trong Hồ Chí Minh kết hợp
cả hai con người đó, và còn kết hợp thêm cả con người nho giáo kiểu
Khổng Tử ?
Câu
hỏi này thoạt nghe có vẻ như thừa, sau tất cả các nghiên cứu đã công bố
về Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau vô số công trình của các nhà nghiên cứu
quốc tế. Thế nhưng thực tế hiện nay đòi hỏi phải đặt lại câu hỏi đó,
bởi vì một bộ phận người Việt dường như chỉ muốn nhìn Hồ Chí Minh như
một người cộng sản, và duy nhất ở khía cạnh cộng sản. Ngược lại, không
phải là không có người nghĩ rằng Hồ Chí Minh "phi cộng sản", và cho rằng
cộng sản, đối với Hồ Chí Minh, chỉ như là cái áo che giấu cái thực chất
là cách mạng dân tộc. Lại có những người cho rằng Hồ Chí Minh bất đắc
dĩ mà trở thành cộng sản. Mỗi bên đều tìm thấy trong lịch sử những yếu
tố làm căn cứ cho suy diễn của mình.
Chưa
lúc nào mà Hồ Chí Minh và di sản Hồ Chí Minh lại gây tranh cãi như hiện
nay. Điều này là bình thường, và có thể nói là đáng mừng. Bởi vì ít ra
chúng ta cũng tự cho phép mình không đồng ý với nhau, tức là cho phép
tồn tại tình trạng đa nguyên trong suy nghĩ. Chúng ta cũng hiểu rằng
không thể tự cho phép mình áp đặt nhận định chủ quan của mình lên người
khác, càng không thể bắt người khác phải tin theo mình một cách vô điều
kiện.
Nhân
đây cũng xin một lần giải thích rằng đối với những người làm nghiên cứu
như tôi, những người lấy việc tìm hiểu sự thật làm mục đích, lấy sự
công bằng làm phương châm trong đánh giá, thì chỉ có sử liệu, sự kiện,
căn cứ, bằng chứng, nhân chứng, và phân tích dựa trên các căn cứ và bằng
chứng ấy, mới có khả năng thuyết phục. Và sẽ không chấp nhận bị chi
phối bởi bất kỳ một áp lực nào (dù là áp lực của bạo lực chính trị hay
là áp lực của tin đồn, của dư luận, của bình luận…).
Vụ
thẩm tra năm 1936 cho phép phần nào nhận diện sự lựa chọn của Nguyễn Ái
Quốc vào thời điểm ấy, xin nhắc lại, vào thời điểm các thập kỷ 1920 và
1930. Ở đây các phân tích của tôi chỉ dựa vào bản báo cáo của Vera
Vasilievna, đoạn trích được dịch ở trong bài, chứ không dựa vào phần
phân tích và bình luận của Bá Ngọc.
Dưới đây là trích đoạn từ bản giải trình của Vera Vasilievna, theo bản dịch của Bá Ngọc :
"Nguyễn
Ái Quốc là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là người rất có uy tín
giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng sản đầu
tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi hợp nhất
Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc tế cộng sản, mặc
dầu Quốc tế cộng sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng,
Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai
lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ
ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản... Do đó, uy tín của
đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội ngũ những người lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị tháng 10/1930 của Đảng Cộng sản Đông
Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng chí. Sau Hội
nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại
Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban lãnh đạo Đảng phản ánh
tâm trạng không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên
lạc viên bình thường mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo ; đã đưa ra
những ý kiến, ghi chú, nhận xét của mình trong các chỉ thị, thông báo
của Quốc tế cộng sản và cản trở những thông tin từ đất nước gửi Quốc tế
cộng sản.
Ngày 6/6/1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng Công và bị kết án 2 năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vaxiliepna) liên
hệ với luật sư bào chữa thông qua Tổ chức cứu trợ những người cộng sản
bị nạn của Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức
cho Nguyễn trốn thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi
chúng tôi. Một thời gian sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong
tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết
mà được thả tự do và biến mất.
Vào
tháng 7/1934, Nguyễn Ái Quốc đến Matxcơva. Theo lời kể của Nguyễn Ái
Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một cách
dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ
nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn
bản về các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và
trở về với chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở
về, theo Nguyễn Ái Quốc kể thì do Vaillant-Couturier trong thời gian ở
Trung Quốc đã tổ chức giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này
cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi
học tại Trường Marx-Lenin cho đến ngày nay. Thống nhất với các đồng chí
Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, mặc
dầu chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn đấu. Nguyễn đã
nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng, đặc
biệt, rất quan tâm tới các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc
họ đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về
việc không được tham gia những nhiệm vụ bí mật. Trong mối quan hệ với
các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người
lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai
sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư
tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thứ đó có thể chống lại ý
nguyện của mình.
Trên
đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc khi tự phê bình
tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó.
Điểm
lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định vị trí đại diện
trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể tham
gia Đại hội (Quốc tế cộng sản) như một đại biểu chính thức".
(trích báo cáo của Vaxiliepna)
Với
câu đầu tiên trong trích đoạn này, Vasilievna khẳng định một điều mà
chúng ta đều đã biết : Hồ Chí Minh là người cộng sản Đông Dương đầu
tiên, là người có uy tín quốc tế và là người đã thành lập những tổ chức
cộng sản đầu tiên ở Đông Dương. Tuy nhiên, điều này chưa đủ để thỏa mãn
những người đặt câu hỏi về việc chủ nghĩa cộng sản đối với Nguyễn Ái
Quốc là mục đích hay phương tiện.
Trong
bản báo cáo, một số chi tiết cho thấy Nguyễn Ái Quốc không hoàn toàn
tôn trọng quy định và kỷ luật của Quốc tế cộng sản. Chẳng hạn, ông tự
nhận mình là đại diện của Quốc tế cộng sản trong khi chưa được Quốc tế
cộng sản ủy quyền. Điều này cho thấy đối với Hồ Chí Minh, việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam quan trọng hơn tất cả, và để có thể thực hiện
điều đó ông đã nhân danh là đại diện Quốc tế cộng sản dù chưa được phép.
Và ông cũng không để cho Quốc tế cộng sản nắm được hết các hoạt động
của mình. Đáng chú ý hơn là nhận định này của Vasilievna : "Trong
thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Ủy ban lâm thời và
đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một cách máy móc các nhóm cộng
sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ và tư sản".
Xét
theo các nguyên tắc của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã phạm sai
lầm. Nhưng trong thực tế, chính là nhờ "sai lầm" trong việc kết hợp với
các tầng lớp địa chủ và tư sản mà Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể thu
hút được quần chúng và những người yêu nước, cho dù những người đó thuộc
tầng lớp địa chủ hay tư sản. Dĩ nhiên, kết hợp với giai cấp địa chủ và
tư sản là đi ngược hoàn toàn với tư tưởng của Lê-nin. Điều mà Quốc tế
cộng sản (đại diện là Vasilievna) cho là "máy móc", thì chính lại là
"sáng tạo" của Nguyễn Ái Quốc, nó cho phép hợp nhất các tổ chức cộng sản
manh mún lúc đó để tạo ra một đảng có thực lực lớn hơn, có điều kiện để
phát triển mạnh hơn. "Những người muốn giải phóng đất nước, cần phải
thành lập một đảng mạnh", câu này chính là bài học mà Phan Bội Châu
truyền lại cho Nguyễn Tất Thành từ những ngày đầu tiên đi tìm đường giải
phóng quê hương.
Một
chi tiết cần lưu ý trong tài liệu này là, mặc dầu Nguyễn Ái Quốc là
người thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, tuy nhiên, ông không giữ chức vụ lãnh đạo trong tổ chức đảng.
Nguyễn Ái Quốc không giữ vai trò nào trong cấu trúc quyền lực của Đảng
Cộng sản Việt Nam giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 10 năm 1930. Trong danh
sách thành viên của Ủy ban lâm thời không có tên ông, và người được chỉ
định giữ chức vụ Tổng bí thư là Trịnh Đình Cửu. Tại sao ? Điều này,
trong số các tài liệu mà tôi đã đọc, tôi vẫn chưa tìm thấy một lý giải
nào thỏa đáng, hơn nữa các tài liệu đều không đặt câu hỏi về việc này,
trong khi điều đó phản ánh một lô-gic không bình thường đối với người
sáng lập đảng. Sau khi đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, do
bị chỉ trích vì các sai lầm, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn giữ vai trò là một
liên lạc viên bình thường, đảm nhiệm công viêc liên lạc giữa Quốc tế
cộng sản và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á.
Tài
liệu về vụ thẩm tra cho thấy rằng Nguyễn Ái Quốc, vào lúc đó, không lệ
thuộc vào các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản kiểu Lenin, và đối với
ông, đó chỉ là một phương tiện phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc "không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa
chủ và tư sản", bởi vì ông hiểu rằng muốn tạo sức mạnh để giải phóng đất
nước cần đoàn kết các giai cấp khác nhau trong xã hội. Đây là điểm khác
biệt giữa Nguyễn Ái Quốc và những người cộng sản được đúc khuôn từ lò
Liên-Xô, được đào luyện bài bản trong môi trường Xô-Viết và tuân thủ
trung thành tư tưởng Stalin.
Có
thể nhớ lại rằng ở đại hội Tour, 1920, Nguyễn Ái Quốc đã gióng lên
tiếng kêu trước đảng Xã hội Pháp : "Camarades, sauvez-nous !" (Các đồng
chí, hãy cứu chúng tôi !). Tuy nhiên, rất nhanh chóng Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy rằng các đồng chí cánh tả ở Pháp không cứu được Việt Nam thoát
khỏi ách thuộc địa, rằng các phong trào chính trị ở Pháp, kể cả Đảng
Cộng sản Pháp, không quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Và chỉ sau
một thời gian rất ngắn tham gia Đảng Cộng sản Pháp, ông đã rời Paris để
sang Nga năm 1923, nơi mà theo ông vấn đề thuộc địa được coi là quan
trọng.
Nhưng
Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ lưu lại Nga chừng 2 năm, cuối 1924 ông rời Nga
sang Trung Quốc. Tại sao ? Tại vì ở Nga, dù đó là cái nôi của chủ nghĩa
cộng sản thì ông cũng không thể thành lập các tổ chức chính trị của Việt
Nam. Thực tế cho thấy, chỉ mấy tháng sau, vào tháng 6/1925, Nguyễn Ái
Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại Quảng
Châu, Trung Quốc, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ ra đời 5 năm
sau.
Những
gì mà Quốc tế cộng sản vào năm 1936 xem là "sai sót" ở Nguyễn Ái Quốc
thì có thể không hẳn như vậy. Đối với Quốc tế cộng sản là sai sót, nhưng
đối với Nguyễn Ái Quốc đó là những gì cần phải làm. Vasilievna nhận
định : "Trong bản thân Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ".
Điều này hoàn toàn đúng. Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ là
điều mà Nguyễn Ái Quốc lúc đó và Hồ Chí Minh sau này không bao giờ từ
bỏ.
Nguyễn
Ái Quốc không quan tâm nhiều đến vấn đề lý luận, không giành thời gian
cho lý luận về chủ nghĩa cộng sản, về cơ bản ông là người hành động. Đấy
là lý do khiến Vasilievna nêu nhận xét này : "Trong mối quan hệ với
các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người
lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai
sót trong quá trình trao đổi". Sự yếu kém về lý luận của Nguyễn Ái
Quốc là sự thật, chứ không phải do ông giả vờ yếu kém. Có nhiều lý do
cho sự yếu kém này, trong đó có một lý do căn bản : ông chọn hoạt động
thực tiễn và coi lý luận Marx-Lenin chỉ là một công cụ, một vũ khí, một
con đường để thực hiện giải phóng dân tộc. Ít ra là ở thời điểm
1920-1930 là như vậy. Sự phát triển về sau của chủ nghĩa Marx-Lenin
trong tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, vấn đề này sẽ được đề cập tới
một dịp khác. Dù sao, Võ Nguyên Giáp có thuật lại trong cuốn "Đường tới
Điện Biên Phủ" lời của Hồ Chí Minh : "Chủ nghĩa Marx-Lenin là cái gì lợi cho cách mạng thì làm
!". Câu này của Hồ Chí Minh cho thấy tính chất "phương tiện" của chủ
nghĩa Marx-Lenin trong quan niệm của ông. Tuy nhiên, có vô số dẫn chứng
khác cho thấy Hồ Chí Minh tôn chủ nghĩa Marx-Lenin lên thành kinh thánh,
thành kim chỉ nam cho hành động. Vấn đề rất phức tạp và không thể đơn
giản hóa trong một câu trả lời mang tính chất một chiều.
Xin
dẫn ra đây thêm một ví dụ về phía những người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng
sản, thậm chí đảng cộng sản, với Hồ Chí Minh, là một phương tiện. Jean
Lacouture, trong cuốn sách xuất bản năm 1967 viết về Hồ Chí Minh, khi
bình luận về những quyết định của Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951 [thành
lập Việt Minh, giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập Đảng Lao
động Việt Nam – theo Lacouture Đảng Lao động Việt Nam là "thuần túy Việt
Nam" -, thành lập Mặt trận Liên Việt…], đã viết : "Tất cả diễn ra cứ
như thể Hồ Chí Minh không xem đảng như là một mục đích, mà như là một
phương tiện, như là một công cụ cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ mà chủ
nghĩa thực dụng của ông lại xuất hiện một cách can đảm như thế, sống
động như thế" (Ho Chi Minh, Jean Lacouture, Seuil, 1967,
tr.196). Lacouture không phải là không có lý khi nêu nhận xét này. Cái
lý đó là : nếu mục đích của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, thì không có
gì khó hiểu khi đảng cộng sản đối với ông chỉ là phương tiện, là công
cụ để giúp ông đạt mục đích đó.
Cũng
đừng quên rằng cho đến khi Hồ Chí Minh chết, đảng vẫn mang tên "Đảng
Lao động Việt Nam". Phải chăng, đối với Hồ Chí Minh, tên gì cũng được,
không nhất thiết phải là "đảng cộng sản", miễn là nó phục vụ công cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc ? Ngoài ra, dưới thời kỳ lãnh đạo của Hồ
Chí Minh, Hiến pháp Việt Nam không có điều khoản quy định sự lãnh đạo
tuyệt đối của đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí cũng không có điều khoản
quy định sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đảng đang cầm quyền lúc
đó. Việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, và đưa quyền lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vào Hiến pháp chỉ xảy ra dưới thời Lê
Duẩn toàn quyền.
Điều
này có ý nghĩa đối với những người đang ra sức "học tập và làm theo lời
Bác", nhất là những người phát động phong trào này. Lãnh đạo Việt Nam
chỉ phát động phong trào "học tập tư tưởng Hồ Chí Minh", chứ không phát
động phong trào "học tập tư tưởng Lê Duẩn". Vậy Đảng Cộng sản Việt Nam
hiện nay đang học tập Hồ Chí Minh, hay đang học tập Lê Duẩn ? Và lãnh
đạo đảng cũng không nên tiếp tục lảng tránh và nguỵ biện về việc Lê Duẩn
và đảng đã phản bội di chúc của Hồ Chí Minh. Đã đến lúc phải thực hiện
di chúc của ông ấy. Làm sao có thể vừa phản bội Hồ Chí Minh vừa học tập
Hồ Chí Minh ?
Chủ nghĩa cộng sản là mục đích hay phương tiện ?
Câu hỏi này, những đảng viên đảng cộng sản ngày nay cần đặt ra cho mình. Vì sao ?
Nếu
chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện để đạt tới mục đích giải
phóng dân tộc, thì sau khi đạt được mục đích, có thể loại bỏ phương
tiện, nhất là khi mà phương tiện đó không còn hữu ích nữa. Càng cần phải
vứt bỏ phương tiện đó, khi mà ngày nay nó đang trở thành lực cản, cản
trở việc thực hiện các mục đích : độc lập dân tộc, sự hùng cường của
quốc gia, tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Paris, 21/2/2017
Nguyễn Thị Từ Huy
Nguồn : RFA, 30/03/2017 (nguyenthituhuy's blog)