Trung Quốc có đổ tiền cứu Việt Nam? (Phạm Chí Dũng-VOA)
Việt Nam lại là “ca” khó hơn nhiều so
với Campuchia. Muốn kinh tế Việt Nam tạm tránh khỏi sụp đổ, nền kinh tế
nước này phải được bơm lập tức ít nhất 100 tỷ USD, tương đương 50% GDP
của Việt Nam, để cứu hệ thống ngân hàng và trả một phần nợ công. Trung
Quốc sẽ lấy ở đâu số tiền khổng lồ đó, cho dù Bắc Kinh có đủ tin cậy và
muốn rót tài chính cho một phe nào đó ở Việt Nam?
Câu hỏi này, thậm chí mang ý nghĩa
đối với một phần sự sống còn của dân tộc Việt Nam, đã tồn tại từ rất lâu
và giờ đây lại một lần nữa đặc biệt xáo động trong tâm thức nhiều người
đang lo lắng việc Bắc Kinh sẽ đổ tiền để cứu vãn chế độ Hà Nội – như
một cách nhằm bảo vệ ý thức hệ độc đảng chuyên quyền và phản dân chủ.
Ngửa bài đe dọa
Quá nhiều người Việt vừa không thích
Trung Quốc, vừa lo sợ lịch sử về nguy cơ Trung Quốc sẽ biến Việt Nam
thành một thứ tỉnh lỵ thuộc Bắc Kinh vào một thời điểm nào đó, nhất là
sau khi Hội nghị Thành Đô đặt mọi chuyện vào sự đã rồi và luôn là một
cái cớ để Bắc Kinh tấn công Việt Nam bất kỳ lúc nào thuận lợi.
Năm 2016, một trung tâm nghiên cứu có uy
tín của Hoa Kỳ là Pew đã chứng thực và lượng hóa tâm lý “thoát Trung”
ấy. Khi Pew đặt câu hỏi đối với 1.000 dân Việt được hỏi nước nào là mối
đe dọa lớn nhất, có tới 74% chọn Trung Quốc. Và khi Pew đề cập quốc gia
nào có thiện cảm nhất, chỉ có 16% dân Việt chọn Trung Quốc.
Nhưng ở Việt Nam đương đại, chủ nghĩa
“thân Trung” vẫn tồn tại từ thời Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống. Chỉ có
một điểm khác biệt cơ bản: nếu ít năm trước loại chủ nghĩa này còn cố
gắng che giấu ý đồ và hành vi của nó, thì nay một số nhân vật người Việt
đại diện cho khuynh hướng và tổ chức “thân Trung” ở Hà Nội thậm chí còn
công khai tuyên truyền cho khả năng “không có chuyện chế độ (Việt Nam)
sụp đổ vì Trung Quốc sẽ đổ tiền để cứu”.
Hầu như không khác với giới tuyên huấn
Bắc Kinh mà từ lâu vẫn hô hào về một “Trung Quốc đang trỗi dậy” để người
dân nước này không nên ngả theo phương Tây và cũng chẳng cần phải đấu
tranh giành các quyền con người, các nhân vật “thân Trung” ở Hà Nội muốn
lật ngửa bài để đe dọa những quan chức manh nha theo đường lối đồng
minh quân sự với Mỹ và Nhật, cùng lúc khống chế phong trào dân chủ nhân
quyền và tinh thần kháng Trung ở Việt Nam.
Không biết vô tình hay hữu ý, hành động
“thân Trung” trên càng gia tốc và nguy hiểm hơn sau chuyến làm việc của
ông Nguyễn Phú Trọng tại Trung Quốc vào tháng Giêng năm 2017, kéo theo
15 hiệp định song phương và ngay lập tức vốn đầu tư của Trung Quốc vọt
lên hàng thứ hai trong các kênh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Vì sao phải ‘cứu Việt Nam’?
2017 – năm bị xem là “cực kỳ khó khăn”
đối với nền kinh tế Việt Nam mà thậm chí một quan chức cao cấp là Nguyễn
Xuân Phúc đã phải cảnh báo về “sụp đổ tài khóa quốc gia”.
Hẳn là thế và hình như không còn lối
thoát nào khác nếu chiếu theo luận thuyết “kinh tế quyết định chính trị”
của Mác mà Việt Nam vẫn hàng ngày truyền tụng trong các cơ sở đào tạo
“lý luận chính trị cao cấp”.
Sau triều đại bị xem là “phá chưa từng
có” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sự thật về một nền kinh tế suy sụp và
cận kề khủng hoảng đã không còn lời nào để bào chữa. Nếu trước đây Thủ
tướng Dũng, dàn tham mưu bộ ngành của ông ta, và kể cả dàn đồng ca phụ
họa của những người bên đảng còn tự an ủi rằng những “khó khăn kinh tế”
như nợ xấu, nợ công, ngân sách không phải là chuyện lớn và “vẫn còn dư
địa để vay tiếp và phát triển”, làm thế nào có thể lý giải được một sự
thật trần trụi là ít nhất 25 tỷ USD nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn
hoàn toàn bế tắc trong xử lý trong khi nợ công quốc gia không phải chỉ
gần 65% GDP như đủ loại báo cáo “nâng lên một tầm cao mới” mà đã vọt lên
đến 210% GDP – gấp hơn 3 lần ngưỡng nguy hiểm?
Kinh nghiệm của các quốc gia từng suýt
vỡ nợ nhưng cuối cùng không vỡ là cho dù nợ công cao nhưng ngân sách và
dự trữ ngoại hối vẫn còn đủ bù đắp. Cách đây vài năm, giới chuyên gia
nhà nước vẫn thường lấy Nhật Bản như một bài học kinh nghiệm về tỷ lệ nợ
công vượt hơn 200% GDP nhưng vẫn an toàn để cho rằng Việt Nam… cũng sẽ
ổn. Nhưng lại theo kinh nghiệm của những quốc gia đã từng thực sự vỡ nợ
như Argentina, nợ công kinh khủng mà ngân sách lại cạn kiệt là những
tiêu chí chắc chắn dẫn đến một kịch bản vỡ nợ chắc chắn, có khi còn kéo
theo sự sụp đổ của cả một chính phủ.
Việt Nam lại đang bước vào năm suy thoái
kinh tế thứ 9 liên tiếp, trong lúc các kênh “ngoại viện” gần như đóng
lại. Ngay cả Hiệp định TPP mà giới lãnh đạo Việt Nam từng trông đợi để
được “tăng 25% GDP” cũng gần như tan vỡ. Trong khi đó, một hiệp định
khác – Hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu –
cũng chưa tới đâu, cho dù đã được ký kết từ cuối năm 2015. Nghe đâu Nghị
viện châu Âu còn đang rất cân nhắc có nên thông qua việc triển khai
hiệp định này hay không khi chính quyền Việt Nam vẫn thẳng tay đàn áp
nhân quyền.
Thậm chí vào năm 2016, lượng kiều hối
của “kiều bào ta” gửi về quê hương đã sụt đến 3 tỷ USD – giảm hơn 30% so
với năm 2015, báo hiệu một thời kỳ “đen tối”…
Việt Nam đang hội tụ gần như đầy đủ các
yếu tố đủ lớn cho một sự ra đi về “ổn định kinh tế tức ổn định chính
trị”: từ năm 2015, ngân sách trung ương đã bị cảnh báo là “có thể trống
rỗng”, để đến năm 2017, bên cạnh lời cảnh báo “cực kỳ khó khăn” là bắt
đầu xuất hiện dự báo về khả năng nền ngân sách này “không trụ nổi đến
hết năm 2018”.
Đó là nguyên do sâu xa để chế độ một
đảng ở Trung Quốc, nếu không thật sự khó khăn tài chính, đã và sẽ phải
đổ tiền để cứu chế độ độc đảng tại Việt Nam.
Thực chất kinh tế Trung Quốc ra sao?
Rất nhiều người cho rằng những nhân vật sâu hiểm và có tầm như Tập Cận Bình sẽ chỉ “cứu Việt Nam” nếu Trung Quốc có đủ sức.
Khách quan mà xét, Trung Quốc đã vượt
qua được một thử thách rất lớn về kinh tế vào giai đoạn những năm 2012 –
2013. Từ năm 2011, người được giải Nobel kinh tế là Tiến sĩ Nouriel
Roubini đã đưa ra dự báo rằng kinh tế Trung Quốc sẽ “hạ cánh cứng vào
năm 2013”. Tốc độ suy giảm GDP, nợ chính quyền địa phương và tình hình
thiếu khả quan của các thị trường bất động sản và chứng khoán… là một số
cơ sở cho nhận định bi quan như vậy của Rounini và cả một số tổ chức
phân tích tài chính phương Tây. Tuy thế đến năm 2013, Trung Quốc lại bất
ngờ vượt qua vực thẳm kinh tế và tài chính để sau đó nhịp độ tăng
trưởng GDP có phần phục hồi. Cho tới nay, nền kinh tế quốc gia này vẫn
có vẻ “ổn” và không bị quá nhiều dư luận nghi ngờ như trước đây.
Nhưng vẫn có một tử huyệt của nền tài
chính Trung Quốc mà chính quyền nước này chưa bao giờ dám công bố: tỷ lệ
nợ công quốc gia vọt lên đến 237% GDP, tức đến 28 ngàn tỷ USD vào năm
2016 – theo phân tích của tờ Financial Times vào tháng 4/2016 –
vượt xa tỷ lệ nợ của các nước đang phát triển khác. Tình trạng này có
thể dẫn đến khủng hoảng tài chính hoặc trì trệ kinh tế kéo dài ở Trung
Quốc.
Tất nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc hoàn
toàn có thể tự an ủi rằng họ có một kho dự trữ ngoại hối lớn nhất thế
giới – lên đến 4.000 tỷ USD vào năm 2016. Chỉ có điều, con số 4.000 tỷ
này chỉ bằng 1/7 so với gánh nặng nợ công 28 ngàn tỷ.
Chưa kể vào đầu năm 2017, Trung Quốc
phải thừa nhận dự trữ ngoại hối của mình đã giảm mạnh từ 4.000 tỷ về
dưới mốc 3.000 tỷ USD.
Gần đây, những tin tức phản biện mới nhất về thực chất nền kinh tế Trung Quốc đến từ ông Gordon G. Chang, tác giả của cuốn sách Sự sụp đổ sắp đến của Trung Quốc.
Vị luật sư kiêm nhà bình luận người Mỹ này nhận định “kinh tế Trung
Quốc sắp rơi tự do” trong một cuộc phỏng vấn mới đây với trang Đại Kỷ Nguyên, theo đó ông cho rằng Trung Quốc chỉ ổn định trên bề mặt trong năm 2017, nhưng tiềm ẩn bất ổn thực sự dưới bề mặt.
Hai thông tin đặc biệt mà ông Gordon G.
Chang cho biết là: Trong năm 2015, luồng vốn chuyển ra nước ngoài là cao
chưa từng thấy, từ 900 tỷ đến 1.000 tỷ USD; và theo nguồn tin của ông,
chỉ có 500 tỷ USD trong số 3.000 tỷ USD dự trữ ngoại hối là còn có thể
sử dụng được. Cũng theo ước tính của ông, Trung Quốc chỉ còn 1,5 nghìn
tỷ USD tiền khả dụng để bảo vệ đồng Nhân dân tệ.
Ông Gordon G. Chang có ít nhất một cơ sở
cho nhận định về tiền khả dụng chỉ chiếm một nửa so với con số dự trữ
ngoại hối mà chính quyền Trung Quốc công bố: vào năm 2011, chính một cục
trưởng thống kê của Trung Quốc, người sau đó đã về hưu, đã phải thừa
nhận rằng nhiều thống kê của quốc gia này không phản ánh đúng sự thật.
Cũng vào năm đó, con số nợ của các chính quyền địa phương ở Trung Quốc
được công bố chỉ khoảng 1.550 tỷ USD, nhưng đến năm 2014 thì Trung Quốc
đã phải thừa nhận loại nợ này đã tăng gấp đôi, tức 3.000 tỷ USD.
Vài nhà phân tích ở Hồng Kông cũng cho
rằng GDP thực sự ở Trung Quốc không thể tăng đến 7% như báo cáo, mà chỉ
khoảng 4-5% hàng năm.
Việt Nam lại rất thường “đồng tình” với
Trung Quốc về phương thức tuyên truyền về các số liệu kinh tế. Vào
những năm 2009 – 2010, giới lãnh đạo Việt Nam cũng “nâng” tăng trưởng
GDP lên đến 9 – 9,5% như Trung Quốc, để đến gần đây phải “co” về còn
6-6,5%.
Nhưng nói gì thì nói, tình hình kinh tế
và tài chính ở Việt Nam là tồi tệ hơn nhiều so với Trung Quốc. Trong khi
Trung Quốc có đến 3.000 tỷ USD dự trữ ngoại hối mà đã phải “gánh” 237%
tỷ lệ nợ công, tỷ lệ nợ công ở Việt Nam vẫn lên đến 210% nhưng kho dự
trữ ngoại hối chỉ có khoảng 40 tỷ USD theo báo cáo của Ngân hàng nhà
nước (về thực chất số khả dụng trong kho dự trữ ngoại hối của Việt Nam
là thấp hơn khá nhiều vì có đến 1/3 trong đó là trái phiếu chính phủ Mỹ,
số còn lại không được minh bạch).
Có muốn cũng không cứu được!
Trong bối cảnh đầy nguy cơ tiềm ẩn về nợ
công như thế, làm thế nào Trung Quốc có thể “cứu Việt Nam”, cho dù Bắc
Kinh muốn làm điều đó vào một thời điểm nào đó?
Có một bằng chứng tương đối rõ ràng về
khả năng hạn chế của Trung Quốc: vào cuối năm 2016, chính quyền tỉnh
Quảng Ninh đã phải quyết định chọn nhà đầu tư trong nước làm dự án đường
cao tốc Vân Đồn – Móng Cái mà không vay vốn của Trung Quốc, cho dù vốn
đầu tư của dự án này chỉ khoảng 300 triệu USD và đã được Bộ Giao thông
Vận tải nhiệt tình “vận động” cho vụ vay mượn này.
Một chuyên gia phản biện độc lập là ông
Lê Đăng Doanh đã nói toạc thực chất nguồn gốc rất đặc biệt của số vay
300 triệu USD trên: số tiền này được lấy ra từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của
Trung Quốc, chứ không phải là hỗ trợ xuất nhập khẩu. Nghĩa là điều kiện
đi kèm của khoản vay này là Việt Nam phải nhập khẩu hàng hoá của Trung
Quốc.
Một thông tin khác cũng cho biết việc
vay vốn từ Trung Quốc cho dự án cao tốc Vân Đồn – Móng Cái không phải là
dễ dàng và cũng chẳng có ưu đãi nào, còn nếu có ưu đãi (ví dụ: không
cần chính phủ Việt Nam phải bảo lãnh) thì lại gắn liền với nguy cơ thao
túng về kinh tế và cả chính trị mà một số quốc gia như Campuchia và ở
châu Phi đã bị Bắc Kinh “gài bẫy”. Nhiều khó khăn như thế đã khiến giới
lãnh đạo Việt Nam chùn tay trong vay vốn. Thực tế này cũng dẫn đến một
kết luận khác có thể rất quan trọng: chính sách của Trung Quốc cho Việt
Nam vay tín dụng vẫn chưa thể mở rộng.
Dù có đồn đoán về việc Trung Quốc đã cho
Việt Nam vay mượn hàng trăm tỷ đô la trong nhiều năm qua, nhưng từ sau
chuyến đi Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng vào tháng 1/2017 đến nay,
vẫn chưa có dấu hiệu rõ ràng nào về khả năng “Trung Quốc đổ tiền cứu
Việt Nam”. Thay vào đó, dấu hiệu rõ hơn nhiều là Trung Quốc đã và đang
tăng cường đầu tư vào các dự án ở Việt Nam để khống chế dự án dể từ đó
mở rộng thao túng kinh tế Việt Nam lẫn chiến thuật “lấn đất”.
Trong 2 tháng đầu năm 2017, các nhà đầu
tư đến từ Trung Quốc đã đăng ký thực hiện 123 dự án tại Việt Nam và 174
lượt mua cổ phần, chiếm 21,1% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, trở thành
nước đầu tư lớn thứ hai vào Việt Nam, sau Singapore.
Trên bình diện quốc tế, một dấu hiệu
mang tính tham khảo đang diễn ra ở phía bên kia bán cầu. Ở nơi đó, đồng
minh thân cận của Trung Quốc là “Venezuela xã hội chủ nghĩa tươi đẹp” đã
chìm dưới cơn sóng thần lạm phát 700% nhanh đến mức có những dấu hiệu
cho thấy Trung Quốc có vẻ như đang tính toán lại mối quan hệ liên minh
với Venezuela – quốc gia mà nước này đã cho vay khoảng 60 tỷ đôla…
Một nguồn tin quốc tế cho biết một cơ
quan Trung Quốc đã nêu quan điểm: “Các cuộc họp đã đi đến nhất trí là
[Trung Quốc] sẽ không đầu tư thêm vào Venezuela”, “Có một thông điệp rõ
ràng từ trên xuống: cứ để mặc họ gục ngã”. Cũng theo nguồn tin này, các
công ty Trung Quốc ở Venezuela đang chuyển nhân viên sang Colombia và
Panama vì lý do an ninh, và cũng vì nhiều dự án của Trung Quốc ở nước
này đã bị đình trệ.
Từ nhiều năm qua, chính sách cho vay tín
dụng của Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào mưu tính và mưu toan chính
trị. Nếu chi phối được đối tượng vay, Trung Quốc mới sẵn sàng bỏ ra một
số tiền lớn cho vay với lãi suất ưu đãi. Giới lãnh đạo Việt Nam nghĩ thế
nào nếu ngay cả một chế độ thể được coi là “thần phục thiên triều”
như chế độ Hun Sen ở Campuchia mà cũng chỉ được Trung Quốc viện trợ hơn
600 triệu USD trong năm 2015?
Việt Nam lại là “ca” khó hơn nhiều so
với Campuchia. Muốn kinh tế Việt Nam tạm tránh khỏi sụp đổ, nền kinh tế
nước này phải được bơm lập tức ít nhất 100 tỷ USD, tương đương 50% GDP
của Việt Nam, để cứu hệ thống ngân hàng và trả một phần nợ công. Trung
Quốc sẽ lấy ở đâu số tiền khổng lồ đó, cho dù Bắc Kinh có đủ tin cậy và
muốn rót tài chính cho một phe nào đó ở Việt Nam?