Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979 (BBC)
Tại
nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn
mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã
biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử,
và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên
sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải
tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới
Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số
phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử
hình vắng mặt' vì chạy theo Trung Quốc:
Khi đã lưu vong ở Trung
Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói
rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung
Quốc bị phe thân Liên Xô của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh
trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết
lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.
Việc thanh trừng vừa
là nỗ lực bóc tách các phần tử thân TQ thật sự và tiềm năng, nhưng nó
cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội ăn sâu ở VN.
Vai trò cá nhân
Sự
đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn
như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc
sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.
Là thành viên sáng lập
Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến
kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.
Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.
Mặc
dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956,
và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo
chủ chốt nhất.
Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy
ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết
quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ
Việt - Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có
thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được
biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào
đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh
chấp Liên Xô - TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay
bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc
đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt
đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy
và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân
TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.
Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.
Ví
dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó
khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội
đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.
Năm 1974, ông Hoàng
Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để chữa bệnh,
nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật
Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã
không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai
trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn
cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro
an ninh.
Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không
còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không
còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành
Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt
- Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên
bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại
nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn
mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã
biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử,
và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên
sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải
tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.
Nhưng
mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm
1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải
thiện quan hệ VN - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong
tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.
Bắc
Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh,
Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa
tuyên bố những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu.
Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là
trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không
được toàn dân ủng hộ.
Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa
kiều tái định cư từ Hà Nội vào Vùng Kinh tế Mới, nhiều người Việt Nam
đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác
biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.
Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.
Khủng hoảng xã hội
Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Quyết
loại bỏ những thành phần bội phản, giới chức có những biện pháp khắc
nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi
khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong
tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an
ninh.
Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại
thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an
Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang
cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã
tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.
Giai đoạn 1970 - 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt - Trung.
Việc
trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới
tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và
ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các
hành vi tội phạm.
Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm
một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so
với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội
nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ
người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.
Các
vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải
đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh
trừng chính trị to lớn.
Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm
trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng
Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.
Ngược lại, một nhà ngoại
giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành quân dự bị gồm
những kẻ tội phạm. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải
thành trộm cướp.
Trong
tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với
Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng
thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời,
ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà
Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện
của quá khứ.
Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà
nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành
trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson
xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện
quan điểm riêng của tác giả. Bài do Lê Quỳnh dịch, đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.