Chuyện chưa kể về 12 ngày đêm quyết tử với quân Trung Quốc giữa đèo Khau Chỉa (VTC News - Hải Minh)
Những ngày này 38 năm về trước, hơn 60
vạn quân xâm lược Trung Quốc đã bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên
giới phía Bắc nước ta với chiêu bài “dạy cho Việt Nam một bài học” theo
lời Đặng Tiểu Bình. Quân xâm lược không ngờ được rằng, tuy bị bất ngờ,
nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên
giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn chí mạng.
Bên hướng Thạch An và hướng Thông
Nông, quân Trung Quốc tràn qua được và đánh tới thị xã Cao Bằng, nhưng ở
hướng Tà Lùng, chúng đã vấp phải bức tường bằng sắt, không thể tiến
thêm bước nào nữa.
Những ngày này 38 năm về trước, hơn 60
vạn quân xâm lược Trung Quốc đã bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên
giới phía Bắc nước ta với chiêu bài “dạy cho Việt Nam một bài học” theo
lời Đặng Tiểu Bình. Quân xâm lược không ngờ được rằng, tuy bị bất ngờ,
nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên
giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn chí mạng.
Ở Cao Bằng, hướng tiến công chính của
quân Trung Quốc theo 2 ngả Thông Nông – Hà Quảng và Phục Hòa – Đông Khê.
Huy động lực lượng kiểu lấy thịt đè người nên ngay từ những ngày đầu
đối phương đã có nhiều mũi tiến khá sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Ngày
19/2, quân Trung Quốc đã áp sát thị xã Cao Bằng.
Tuy nhiên, ở một địa điểm cách cửa khẩu
Tà Lùng 15km theo QL3 ngược ra, đó là đèo Khau Chỉa, thuộc địa phận thị
trấn Hòa Thuận (Phục Hòa, Cao Bằng), ngày 17/2/1979, quân Trung quốc đã
tấn công theo hướng này cỡ gần quân đoàn với rất nhiều xe tăng.
Sau khi nhanh chóng chiếm được cửa khẩu
và thị trấn Phục Hòa, chúng tiếp tục đánh về hướng thị xã để hợp với
cánh quân đánh Trà Lĩnh kéo ra tại đỉnh đèo Mã Phục theo kế hoạch định
sẵn. Thế nhưng, đến đèo Khau Chỉa thì quân Trung Quốc đã bị chặn lại bởi
Trung đoàn 567 cùng dân quân Cao Bằng. Lính Trung Quốc được hỗ trợ bởi
xe tăng, pháo binh… trong suốt cuộc chiến nhưng không vượt nổi qua con
đèo, mặc dù đơn vị này bị cô lập hoàn toàn và chiến đấu độc lập.
Ở đèo Khau Chỉa, gần như không còn bất
cứ một dấu tích nào của cuộc chiến năm xưa. Hỏi những người dân xung
quanh thì được biết thời gian đó họ chạy loạn hết, khi biết tin Trung
Quốc đánh vào. Chẳng ai được chứng kiến 12 ngày đêm khốc liệt ấy.
Cũng thật may mắn, trong chuyến đi tìm
những nhân chứng của cuộc chiến năm xưa tại xã Hưng Đạo, TP. Cao Bằng,
chúng tôi được gặp ông Đinh Ngọc Phong, một cựu binh của Trung đoàn 567
từng chiến đấu tại đèo Khau Chỉa trong trận đánh 38 năm về trước.
Năm nay ông Phong đã 60 tuổi. Ông đã ra
quân và vui thú với cuộc sống điền viên. Nhắc lại những kỷ niệm cũ, ánh
mắt người cựu binh này lại rạng rỡ. Với ông, đó là những kỷ niệm không
bao giờ quên trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình.
Đơn vị của ông Phong được thành lập năm
1976 ở Hà Bắc. Ông thuộc Đại đội 7, Tiểu đoàn 2. Sau một thời gian huấn
luyện, ông Phong cùng đồng đội nhận lệnh hành quân lên đóng chôt trên
biên giới Cao Bằng.
Trung đoàn 567 vốn là trung đoàn bộ
binh, sau có thêm sự hỗ trợ của một tiểu đoàn pháo mặt đất thuộc tỉnh
đội. Thời điểm xảy ra chiến tranh ngày 17/2/1979, đơn vị của ông đang
đóng quân cách biên giới tầm 20km, ngay chân đèo Khau Chỉa.
Trước đó là những ngày nóng bỏng. Khu
vực biên giới trở nên cực kỳ phức tạp. Phía Trung Quốc giở đủ các biện
pháp phá hoại. Người Trung Quốc thường xuyên tìm cách lén vượt biên sang
các làng bản bên Việt Nam, kích động lôi kéo bà con các dân tộc thiểu
số làm nội gián.
Chúng còn cho một số bộ đội biên phòng
phía bên kia giả làm bọn đầu trộm đuôi cướp, phục kích những chỗ mà cán
bộ ta hay đi lại để bắt cóc đem về khai thác gây hoang mang dư luận. Đêm
khuya chúng di chuyển cột mốc, chặn cả suối cho dòng chảy chuyển sang
hướng khác…
“Từ năm 1978, chúng tôi đã chuyển sang
trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, cũng không thể đoán được là
quân Trung Quốc có gây chiến với mình hay không, gây chiến lúc nào, mặc
dù hàng đêm, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nghe thấy những tiếng nổ ì ầm
ngay sát biên giới”, người cựu binh tâm sự.
Về sau, mọi người mới biết, ngay từ đêm
16/2, các tổ thám báo của Trung Quốc đã bí mật mang theo bộc phá luồn
sâu, móc nối với những thành phần nội gián, thành lập các toán vũ trang
phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu nhằm ngăn chặn quân Việt
Nam. Đồng thời, chúng cũng bí mật cắt đường dây điện thoại để cô lập
chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo của bộ đội ngay sát biên
giới.
Mấy hôm sau, có người chạy loạn kể lại,
sau khi vượt qua biên giới, lính Trung Quốc đã đào lên mấy cái hầm bí
mật khá to, chứa rất nhiều súng đạn, quân trang. Theo một người dân,
chúng đã đào và chôn cất ở đây khá lâu, chứng tỏ đã có âm mưu chiến
tranh với Việt Nam từ trước.
5h sáng 17/2/1979, sau tiếng nổ liên
hồi, xe tăng và xe bộ binh Trung Quốc đã nhất tề tràn ngập lãnh thổ Việt
Nam. Không ai bảo ai, ông Phong cùng các đồng đội nhanh chóng tiến vào
vị trí chiến đấu, dù lúc đó đường dây thông tin liên lạc đã bị cắt mất,
không nhận được chỉ thị của cấp trên phối hợp chiến đấu.
“Các đơn vị của Trung đoàn 567 cùng với
dân quân địa phương chiến đấu chống trả quyết liệt, suốt một dải từ biên
giới Tà Lùng, sang đến nhà máy đường Phục Hòa, cho đến chân đèo Khau
Chỉa, lính Tàu bị chặn đứng. Xe tăng, xe bộ binh Trung Quốc cái thì tan
xác, cái thì lật ngửa pháo lên trời, cái thì bốc cháy lao vào bụi tre…
Một câu chuyện vui được kể lại, có anh
dân quân người địa phương chập tối 18/2 lấy đâu được 1 khẩu K44, liền
ngay lập tức tham chiến. Đến lúc chỉ còn 2 viên đạn, mới nhận ra là mình
đang ở giữa thung lũng, 2 bên là 2 cánh bộ binh Trung Quốc đang tìm mọi
cách để tiến sang.
Anh dân quân bắn vào mỗi bên 1 phát đạn,
rồi nhanh chóng chạy vào trong hốc đá, thế là 2 cánh quân xâm lược cứ
thế núp kín rồi bên này bắn bên kia. Đến khi bọn lính thông tin nhận ra
được tín hiệu của đồng bọn, thì đã thiệt hại lớn về nhân mạng.
Mới đầu, quân xâm lược chỉ tìm đánh với
các lực lượng vũ trang chốt giữ ở biên giới, nhưng đến lúc không tiến
lên nổi, chúng quay sang điên cuồng đốt phá trả thù chẳng khác gì một
đám giặc cỏ. Chúng đã đánh giá quá thấp sức chiến đấu và khả năng cơ
động, linh hoạt của quân dân Việt Nam”, ông Phong tự hào thuật lại.
Đến ngày thứ 3, thì có 4 chiếc xe tăng
chọc thủng phòng tuyến, chạy thẳng lên đèo Khau Chỉa. Đơn vị của ông
Phong nhận lệnh phải tiêu diệt bằng được.
4 xe tăng lên đến giữa đỉnh đèo thì ngay
lập tức đụng phải chướng ngại vật là 1 chiếc ô tô dựng sẵn cùng một
đống cây cối. Chưa kịp xoay xở, chúng đã bốc cháy ngùn ngụt sau mấy quả
đạn B41. Những tên lính trong tháp pháo nhảy xuống chạy trốn cũng nhanh
chóng chịu chung số phận.
Sự kháng cự không hề nao núng của bộ đội
và dân quân Việt Nam chốt trên hướng Khau Chỉa buộc Trung Quốc phải
thay đổi chiến thuật. Chúng chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn cơ
động để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm, khóa đường, lùng sục.
Nhưng với sự cơ động và linh hoạt của các chiến sĩ, suốt cả tuần lễ,
lính Trung Quốc vẫn không thể vượt qua con đèo này.
Ngày 23/2/1979, ông Phong cùng đồng đội
nhận được tin quân Trung Quốc chuẩn bị một trận quyết đấu, mang một lực
lượng lớn, dồn lính quyết mở thông đường qua Khau Chỉa về đèo Mã Phục
hội quân. Mọi người nín thở chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi trận quyết đấu.
Chính trị viên đại đội tên Nguyễn Chí
Cương cùng với mấy đồng động nữa chia nhau chốt giữ một nhánh đường phía
bắc đèo Khau Chỉa, thì thấy có 3 chiếc xe tăng có in dòng chữ Bát Nhất
tiến lại, có vẻ như lính Tàu sử dụng xe tăng đi thăm dò tình hình.
Ông Cương lặng lẽ ẩn nấp dưới giao thông
hào gần đó, chờ xe đi qua, mới dùng súng B40 bắn, sau đó chạy thẳng lên
đồi dưới làn đạn của giặc. 2 chiếc xe đi trước quay lại cứu đồng bọn
đang bị mắc kẹt trong chiếc xe vừa bị bắn đang bốc cháy, trong phút chốc
cũng chịu chung số phận. Trong trận đánh đó, ông Cương hy sinh khi quân
xâm lược phát hiện ra vị trí ẩn nấp của mình ở trên núi.
Chiều hôm đó, một tổ chiến sĩ khác chốt
giữ lại thấy có xe chở đầy lính Trung Quốc chạy đến giao thông hào, rồi
nhảy hết vào một bản ở gần đấy. Chốc chốc, chúng lại khiêng ra xe nào
gà, nào vịt, nào lợn. Các chiến sĩ căm giận lắm nhưng chưa được lệnh nổ
súng, đành phải nén lòng chờ đợi, không bắn vào nhóm này mà chờ những
đơn vị lớn hơn.
Sáng hôm sau, cả đoàn xe tải nối đuôi
nhau chạy vượt lên đèo. Trên xe ngoài lính tráng còn chất cả những bao
hàng và những chiếc xe đạp hỏng, đó là những thứ chúng cướp được dọc
đường. Chiếc xe đầu đã lọt vào trận địa phục kích mà ông Phong cùng đồng
đội vẫn chưa được lệnh đánh.
Hàng chục con mắt và đôi tai chiến sĩ cứ
căng ra và đổ dồn về phía thủ trưởng chờ đợi, chỉ sợ mình không kịp
nghe lệnh để rút nụ xòe và tung lựu đạn xuống đầu địch. Và cứ mỗi chiếc
xe chở lính Trung Quốc chạy qua tầm súng, các chiến sĩ lại thêm một lần
hồi hộp chờ nổ súng.
Khi chiếc xe cuối cùng vào đúng vị trí
khóa đuôi trên đèo thì tiểu đoàn trưởng ra lệnh bắn. Trên vai anh, quả
B41 vọt ra khỏi nòng, cắm thẳng vào thùng xe và nổ tung. Trong quầng lửa
màu da cam hiện rõ từng tên lính bị hất lên rồi ném xuống mặt đường nằm
bất động. Phát B41 cũng là khẩu lệnh của trận đánh, tiếp đó là tiếng
lựu đạn nổ, tiếng thủ pháo xen lẫn từng tràng liên thanh của AK dồn dập
đánh địch.
Ở ngay vị trí chặn đầu, loạt đạn AK
trúng ngay tên cầm lái, chiếc xe lảo đảo đâm vào vách núi rồi bật lại,
xoay nửa vòng nằm chình ình chắn ngang đường. Đội hình 16 chiếc xe còn
lại với hàng trăm tên lính nằm gọn trong tầm súng và biển lửa.
Chiến tranh biên giới 1979: Vết thương lòng của những người ở lại
Những loạt đạn B40, B41 phóng xuống
những chiếc xe bốc cháy và nổ tung liên tiếp. Những xe còn lại rối loạn,
bóp còi inh ỏi tìm đường tẩu thoát, nhưng chạy đâu được khi đã lọt vào
trận địa phục kích.
Lính Trung Quốc trên xe nhảy xuống chỉ
kịp dúi đầu xuống sàn xe bắn trả hoặc nằm rạp xuống 2 bên đường tìm chỗ
ẩn nấp. Từ trên cao, các chiến sĩ ta quăng lựu đạn, thủ pháo, bắn AK
xuống. Chỉ một thời gian ngắn, xác lính đã la liệt giữa đèo Khau Chỉa.
Ông Phong cùng đồng đội đang đánh địch
thì hàng trăm tên lính Trung Quốc đang chốt trên những mỏm đồi gần đó,
nghe thấy tiếng súng nổ và ngọn lửa bốc cao dưới đường đèo đã bỏ luôn
súng, rủ nhau chạy lên đồi cao nhìn xuống trận địa nơi đồng bọn đang bị
tiêu diệt.
Nắm đúng thời cơ, trung đội trưởng cối
82 ly ra lệnh đánh. Hàng chục quả đạn đã được tính toán kĩ lưỡng bắn nối
đuôi nhau dội lửa xuống đầu địch, tiêu diệt hàng chục, hàng trăm tên
nữa.
“Chỉ tầm hơn tiếng, trận đánh đã kết
thúc. Chúng nó dự định kéo cả trăm xe qua đèo, nhưng chỉ có 17 xe lọt
vào trận địa phục kích trải dài trên đèo. Những chiếc khác thấy động đã
quay đầu chạy tán loạn, và bị các đơn vị khác chặn đánh dọc đường. Tôi
ước tính, đoàn xe 17 chiếc này cũng phải đi tong cỡ 2 tiểu đoàn. Chúng
tôi lấy được thêm súng đạn, lương thực, chiến lợi phẩm tiếp tục những
ngày tháng chốt giữ trên đèo Khau Chỉa. Đây là một trận đánh xuất sắc”, ông Đinh Ngọc Phong, cựu binh Trung đoàn 567 tự hào kể lại.
Tính ra, bên hướng Thạch An và hướng
Thông Nông, quân Trung Quốc tràn qua được và đánh tới thị xã Cao Bằng,
nhưng ở hướng Tà Lùng, chúng đã vấp phải bức tường bằng sắt, không thể
tiến thêm bước nào nữa.
Cay cú, Trung Quốc dồn một lượng quân
lớn ở thị xã Cao Bằng, rồi đánh ngược lên biên giới theo hướng đèo Mã
Phục, từ đằng sau đánh lên, kết hợp với quân lính từ bên kia tràn sang
bổ sung quân theo đường Tà Lùng.
Mục tiêu của chúng là bao vây và diệt
cho bằng hết Trung đoàn 567 cùng với các lực lượng dân quân địa phương
chốt giữ ở Khau Chỉa, trả cho bằng được mối hận ấy. Đêm 29/2/1979, ông
Phong cùng các đồng đội được lệnh rút lui chờ thời cơ phản kích.
Trung đoàn 567 hành quân về đến Quảng
Uyên lại đụng độ và bắn nhau với địch một trận long trời lở đất nữa,
nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, rút về địa điểm ém quân đã định.
“12 ngày đêm chiến đấu trên đèo Khau
Chỉa và những khu vực lân cận ấy, về sau tổng kết, mới biết cả Trung
đoàn đã tiêu diệt tổng cộng 34 chiếc xe tăng, hàng loạt xe bộ binh,
thiết giáp, số lính Tàu tử trận thì không kể xiết, lượng thương vong
lớn. Dù rằng bên mình cũng có không ít hy sinh mất mát, nhưng dù sao,
chúng tôi cũng đã chiến thắng. Để Trung Quốc thấy rằng, người Việt Nam
đâu dễ dàng bị chúng ức hiếp, đâu dễ dàng bị bắt nạt”, người cựu
binh khẳng định, nét mặt bâng khuâng như đang chìm đắm trong những ký
ức. Câu chuyện xảy ra đã 38 năm, nhưng với ông Phong và các đồng đội, nó
như vừa mới hôm qua.
Hải Minh (Theo ký ức của cựu binh Đinh Ngọc Phong cùng các đồng đội)