“Biếu không” nước ngoài mỏ than tốt nhất (Thanh Niên)
Một mỏ than lộ thiên với chất lượng than tốt nhất ở Việt Nam đang là
“lãnh địa riêng” của một công ty Indonesia. Mỗi năm, công ty này hưởng
90% lợi nhuận trong khi phía Việt Nam chỉ được hưởng 10%.
Nghịch lý
Ngày 19.4.1991, Công ty than Uông Bí (TUB), đơn vị thành viên của Tập
đoàn Than khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) ký hợp đồng hợp tác kinh
doanh với Công ty Pt.Vietmindo Energitama, 100% vốn Indonesia (VMD).
Theo đó, VMD sẽ đầu tư toàn bộ máy móc, công nghệ để khai thác trong 30
năm mỏ than Uông Thượng, Đồng Vông. Lợi nhuận được chia theo tỷ lệ 90%
cho VMD và 10% còn lại là của TUB. Đây là mỏ than lộ thiên có diện tích
trên 1.000 ha, nằm trên địa bàn P.Vàng Danh, TP.Uông Bí và cũng là nơi
có vỉa than tốt hạng nhất ở Quảng Ninh.
VMD chỉ việc khai thác trên mặt đất là đã dễ dàng thu được than cám
4, cám 5, là những loại than có chất lượng tốt nhất hiện nay. Trong khi
đó, các doanh nghiệp (DN) thành viên Vinacomin như Công ty than Mạo Khê,
than Núi Béo, thậm chí cả TUB phải đầu tư hàng ngàn tỉ đồng vào công
nghệ khai thác hầm lò và dùng sức người đào sâu vào lòng đất cả trăm mét
mới lấy lên được than.
Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, hợp đồng hợp tác và luận
chứng kinh tế kỹ thuật quy định VMD chỉ được phép khai thác than nhằm
mục đích duy nhất là xuất khẩu. Quy định của hợp đồng hợp tác khống chế
mỗi năm VMD chỉ được phép khai thác 500.000 tấn than thương phẩm, tương
đương khoảng 750.000 tấn than nguyên khai. Trên thực tế, nhiều năm qua
VMD luôn khai thác vượt con số nói trên. Đơn cử năm 2010, VMD đã khai
thác khoảng 750.000 tấn than thương phẩm, năm 2011 là trên 800.000 tấn.
Cũng theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, toàn bộ các công đoạn
sản xuất, khai thác và kinh doanh than được VMD thực hiện theo dây
chuyền khép kín. Khai trường cũng như nơi sàng tuyển than của VMD luôn
đặt trong tình trạng “nội bất xuất ngoại bất nhập”. VMD còn có cả một
cảng riêng để xuất khẩu than mà muốn xuất hiện tại đây để kiểm tra hay
thực hiện công tác về chuyên môn, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng
như đối tác TUB phải được sự cho phép của VMD (?!).
Còn chịu thiệt dài dài
Trao đổi với PV Thanh Niên, ông Phạm Văn Tứ, Phó tổng giám
đốc TUB, thừa nhận tình trạng trên là có thật, nhưng “nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này là do lịch sử để lại” và “bản thân chúng tôi là những
người đi sau, thừa kế”. Theo ông Tứ, bản hợp đồng liên doanh trên danh
nghĩa là do TUB ký kết với VMD nhưng thực tế TUB không được quyết định
mà do Bộ Công nghiệp thời đó trực tiếp phê duyệt.
“Có thể nói, VMD là DN nước ngoài đầu tiên và cũng là duy nhất hợp
tác kinh doanh với ngành than cho đến nay. Trong quá trình hợp tác chúng
tôi thấy rằng việc ký kết hợp đồng thời điểm đó chưa tính toán hết
những vấn đề phát sinh hay nói đúng hơn là có nhiều kẽ hở khiến mình
phải chịu thiệt thòi”, ông Tứ nói.
Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, hợp đồng ký kết giữa hai
bên không hề có một điều khoản nào tạm dừng hoạt động của VMD kể cả
trong trường hợp DN này vi phạm hợp đồng. Mặt khác, toàn bộ hoạt động
khai thác, sản xuất kinh doanh đều ghi rõ VMD là người điều hành. TUB
không được phép kiểm tra, thậm chí việc rót than xuống cảng đưa lên tàu
nước ngoài cũng do VMD trực tiếp thực hiện và TUB không được phép can
thiệp.
Đối với việc kiểm soát số lượng than do VMD sản xuất hằng năm, ông
Phạm Văn Tứ cũng cho rằng chỉ được biết qua khâu hậu kiểm, bởi than từ
mỏ lấy lên, sàng tuyển cho đến khâu vận chuyển ra cảng bán đều do VMD
thực hiện, TUB không được phép kiểm tra trực tiếp. Mặc dù pháp luật Việt
Nam bắt buộc việc khai thác khoáng sản hiện nay phải có giấy phép quy
định về sản lượng theo hằng năm nhưng tại các mỏ của VMD, giấy phép khai
khoáng không có hiệu lực, bởi hợp đồng liên doanh được ký trước thời
điểm quy định về giấy phép khai thác khoáng sản.
Đánh giá về vai trò đối tác của TUB, ông Tứ cay đắng: “Chúng tôi chỉ
biết đi vào đi ra và nghiên cứu khoa học mà thôi. Trước tình trạng này,
chúng tôi đã nhiều lần đề nghị VMD đàm phán lại hợp đồng với các điều
khoản công bằng hơn cho đối tác nhưng đến nay họ chưa đồng ý. Điều này
cũng đồng nghĩa với những thiệt thòi của chúng ta sẽ tiếp tục kéo dài
cho đến khi hết hạn hợp đồng (tức năm 2021 - PV)”.
Trong khi đó, theo nhiều thông tin PV Thanh Niên có được,
trong quá trình khai thác, VMD đã nhiều lần có văn bản đề nghị các cơ
quan chức năng cho phép nâng sản lượng khai thác; đồng thời xin gia hạn
kéo dài hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ông Phạm Văn Tứ cho biết thêm:
“Than ở Uông Bí ngày càng cạn kiệt, chúng tôi cũng muốn giữ một phần tài
nguyên để cho công ty mình khai thác nhưng bây giờ họ đang tiếp tục lập
các dự án mới khai thác 1-2 triệu tấn. Việc này TUB không thể can thiệp
được mà phải do các cơ quan khác cao hơn”.
Thái Sơn - Káp Long
Có thể Việt nam đang phải nhập khẩu than của chính mình
Theo Vinacomin, ước tính vào năm 2014, 2015 Việt Nam sẽ nhập khẩu khoảng 1-6 triệu tấn than. Lượng than nhập khẩu sẽ tăng lên hằng năm. Dự kiến đến năm 2025, lượng than nhập khẩu lên tới 40 triệu tấn. Than nhập khẩu chủ yếu sẽ được cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Giữa năm 2011, lần đầu tiên Việt Nam đã nhập khẩu thí điểm 9.500 tấn than từ chính Indonesia với giá 100,6 USD/tấn than (tính cả cước vận tải). Lãnh đạo Vinacomin khẳng định việc nhập khẩu là để thăm dò thị trường, làm quen với phương thức nhập khẩu, vận chuyển. Rất có thể, Việt Nam đang phải nhập khẩu than của chính mình. Vinacomin chọn Indonesia để “thí điểm” bởi đây là một trong những nguồn cung phù hợp nhất với Việt Nam hiện nay, cả về quãng đường vận chuyển, loại than lẫn giá thành. (Thái Uyên)