Hành trình về dân chủ đa nguyên (phần 7): Lựa chọn chế độ chính trị (Bùi Quang Vơm)
Chế độ Cộng hoà Đại nghị ra đời
do tâm thức khắc phục nhược điểm của thể chế Tổng thống theo
khuôn mẫu Hoa Kỳ và lấy cảm hứng từ sự kế thừa di sản của
chế độ Quân chủ Lập hiến đang áp dụng tại Vương quốc Anh và
các quốc gia trong khối cộng đồng thịnh vượng chung, thuộc Liên
Hiệp Anh. Nó gần như giữ nguyên các cơ chế quyền lực theo nguyên
tắc tuyệt đối hoá quyền lực cơ quan lập pháp, tức là của
Quốc Hội.
Chế độ chính trị của một Quốc gia
có giá ảnh hưởng quyết định tới sinh mệnh quốc gia, tới số
phận hàng triệu con người, tới tương lai của nhiều thế hệ. Chế
độ chính trị quyết định con đường đi của một dân tộc trong
một thời gian dài, nó có thể thúc đẩy quá trình phát triển
tiến bộ vượt bậc, nhưng trong trường hợp ngược lại, trước khi
bộc lộ các khuyết tật đủ để bị đào thải, nó có thể cướp đi
của một dân tộc nhiều chục năm của lịch sử, chặn dòng chảy
lịch sử dừng lại, thậm chí kéo lùi nền văn minh của một dân
tộc ngược trở lại nhiều chục năm.
Vì ý nghĩa đó, lựa chọn chế độ
chính trị cho một quốc gia là một việc làm cần một thái độ
nghiêm túc, quyết định một lựa chọn phải là một hành vi thận
trọng với đầy đủ trách nhiệm.
Tuy nhiên, trên thực tế, một mặt,
thực tiễn lịch sử phát triển xã hội chính trị cuả nhân loại
diễn ra đa dạng, phức tạp, hình mẫu các thể thức chế độ
chính trị cho tới hiện tại chưa bộc lộ đầy đủ những đặc trưng
để có thể phân biệt một cách rành mạch, mặt khác, các chế
độ chính trị được lựa chọn của mỗi quốc gia chỉ có thể gặp
nhau ở những nét lớn đặc trưng, trên thực tế cơ cấu của thể
chế và cơ chế vận hành các thiết chế công quyền của từng
quốc gia không hề giống nhau. Các khác biệt đó có xuất xứ từ
nguồn gốc lịch sử, văn hoá, tập quán sinh hoạt, các điều kiện
địa lý, tương quan quốc tế v.v…của mỗi quốc gia.
Cho nên, mô hình thể chế chính tri
̣cho mỗi quốc gia, mặc dù căn cứ trên các tiêu chí cơ bản có
tính phổ biến về mặt lý thuyết, việc lựa chọn và áp dụng
một thể chế vào việc tổ chức bộ máy nhà nước trên thực tế
không thể chịu ràng buộc về mặt hình thức thể lọai một cách
cứng nhắc. Những đặc tính chung của một loại hình không phải
là các điều kiện bắt buộc phải tuân thủ đối với mỗi quốc
gia. Ngay trong từng hình mẫu, không phải quốc gia nào cũng vận
hành giống nhau.
Vì vậy, lưạ chọn một thể chế
chính trị cho một Quốc gia, về nguyên tắc chỉ dưạ trên Hệ
thống các Giá trị quốc gia. Chế độ chính trị, cơ cấu và cơ
chế vận hành của các thiết chế công quyền, kết cấu và cơ chế
vận hành của các định chế nhà nước phải phù hợp tương ứng
với hệ thống giá trị đó. Chế độ chính trị có chức năng bảo
đảm vận hành bộ máy công quyền quốc gia giới hạn trong khuôn
khổ hệ thống gía trị quốc gia, chịu sự quản chế của hệ
thống giá trịn quốc gia và có nghĩa vụ bảo vệ sự bền vững
bất biến và tính bất tử của nó. Chế độ chính trị chỉ thay
đổi khi triết lý dân tộc hay hệ thống giá trị dân tộc thay
đổi. Cũng vì vậy, chỉ có thể thay đổi một chế độ chính trị
khi đạt được sự thay đổi của hệ thống giá trị.
Như vậy, không phải là lựa chọn
kiểu mẫu nào có sẵn. Nội dung của việc lựa chọn thể chế
chính trị suy cho cùng là việc lựa chọn Hệ thống các giá trị
quốc gia và phương thức Quản trị các giá trị đó.
Hệ thống giá trị quốc gia bao gồm
hai giá trị nền tảng, giá trị vật chất và giá trị tinh thần,
là tài nguyên quốc gia và lịch sử văn hoá dân tộc, giá trị
có trên mặt đất trong giới hạn cương vực lãnh thổ nơi cộng
đồng dân tộc sinh sống và giá trị của cộng đồng người sinh
sống trên cương vực lãnh thổ đó, nói một cách đơn giản, là
chủ quyền quốc gia và quyền của con người sống trong quốc gia
đó.
Giá trị hữu hình, tức giá trị
vật chất của quốc gia khi cương vực lãnh thổ đã ổn định là
giá trị cố định, bất biến. Có nghĩa là chủ quyền quốc gia
là xác định. Chỉ còn quyền con người, tức là các quyền cơ
bản của con người cá thể và các quyền con người sống thành
cộng đồng trong cương giới lãnh thổ chung, trong một quốc gia
chung, dưới một Nhà nước chung, gọi là quyền công dân. Như vậy,
loại giá trị thứ hai, giá trị vô hình hay giá trị tinh thần
sẽ bao gồm quyền cá nhân và quyền công dân.
Quyền cá nhân là quyền moị con
người đều có như nhau, quyền mà thượng đế ban cho con người như
một loài trong muôn loài. Đó là quyền được sinh ra, quyền được
sống, quyền được ăn và tìm kiếm cái ăn, quyền được đi lại khi
cần phải đi lại, quyền được nói khi muốn nói, quyền được suy
nghi và nói ra những điều mình nghĩ̃, quyền được tự do tìm nơi
ở, nơi sinh sống, quyền tìm cách nuôi sống mình và dòng giống
của mình, quyền tư vệ và tìm cách tự vệ, quyền chống lại
tước điạt và áp bức… Những quyền này gọi là quyền tự nhiên,
quyền đương nhiên của loài người, bất kể “cái con người” đó
sinh ra ở đâu trên mặt đất và “cái con người” đó sống dưới chế
độ chính trị nào.
Những cá thể tự do đó sống thành
cộng đồng và tạo thành xã hội. Khi thực thi quyền tự do cá
nhân, các cá thể đụng chạm lẫn nhau, và một quy tắc bắt buộc
phải chấp nhận để được thật sự tự do, đó là khi thực thi tự
do, mỗi cá thể không làm tổn hại quyền tự do của những cá
thể khác.
Quyền của những con người cùng sinh
hoạt trong một cộng đồng xã hội, cùng có một quy ước chung,
chia sẻ với nhau một số phận và một không gian văn hoá chung,
cùng thống nhất một hệ thống quyền lực công cộng chung là Nhà
nước, thì các quyền đó được gọi là quyền công dân – quyền
của người dân sống trong quốc gia, xã hội và Nhà nước chung
đó. Quyền công dân là các quyền chính trị, quyền kinh tế,
quyền xã hội và quyền văn hóa.
Giá trị hữu hình cuả Quốc gia tồn
tại độc lập tương đối với chế độ chính trị cuả quốc gia,
trong khi giá trị vô hình, hay nhân quyền có thể có và có thể
bị tước đọat hoàn toàn, tuỳ thuộc vào chế độ chính trị hình
thành và tồn tại trên quốc gia đó.
Như vậy, Hệ thống giá trị quốc gia
bao gồm hai bộ phận gắn kết hữu cơ tạo ra nền tảng tồn tại
của quốc gia, phần hữu hình có đặc tính bền vững, ít chịu
tác động bởi sự thay đổi của chế độ chính trị, phần vô hình,
ngược lại, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào chế độ chính trị
được áp đặt lên quốc gia.
Một cách tóm tắt, có thể định
nghĩa Chế độ chính trị là hình thái kết cấu nhà nước có hai
chức năng chính là bảo vệ chủ quyền và bảo vệ nhân quyền.
Dưới chế độ chính trị Dân chủ Đa
nguyên, Chính phủ nằm trong tay đảng chính trị cầm quyền, có
tính chất luân phiên. Chính phủ được hình thành và ra đời từ
chiến dịch tranh cử giữa các đảng chính trị khác nhau. Đảng
có Dự án thắng thế giành được đa số ghế trong Quốc hội được
quyền lập Chính phủ. Sự bền vững của Chính phủ tuỳ thuộc
vào khả năng và mức độ thực hiện các cam kết trong chương
trình tranh cử. Vì lý do này, tất cả các chính phủ cầm quyền
đều chịu sức ép chính trị lớn trước áp lực của quốc hội
và của dư luận. Trong quá trình chuyển chính sách thành luật,
chính phủ luôn có xu hướng tự tăng quyền thực thi pháp luật và
lấn áp quyền của công dân. Đó là một đặc tính có tính quy
luật của moị chính phủ.
Việc phân tích, so sánh các loại
hình thể chế chính trị khác nhau là một việc khó, cần nhiều
tài liệu và nhiều thời gian, có thể không hợp với diễn đàn
thảo luận rộng rãi, vì vậy, như các đề tài trước, người viết
chỉ làm việc cuả người nêu ra ý kiến.
Cá lọai hình Chế độ chính trị trên thế giới hiện đại.
Các hình mẫu thể chế chính trị
đặc trưng hiện nay trong lý thuyết chính trị xã hội học hiện
đại, chỉ phân biệt hai chế độ duy nhất, đó là chế độ Quân chủ
và chế độ Cộng hoà.
Chế độ gọi là Quân chủ khi Nguyên
thủ quốc gia, hay người đại diện duy nhất cho chủ quyền quốc
gia là một vị Vua, được quan niệm là chủ sở hữu toàn quyền
và tuyệt đối với mọi tài sản thuộc quốc gia, bất kể tài sản
đó là hữu hình hay vô hình. Vua không do ai bầu, Vua nhân danh
Thượng đế, Đấng Toàn năng cai quản quốc gia, chăn dắt quốc dân,
có quyền cha truyền con nối.
Quân chủ là tuyệt đối khi moị tài
sản thuộc quyền sở hữu của nhà Vua và moị thực quyền tập
trung hoàn toàn trong tay nhà Vua. Nhà Vua làm ra luật, quy định
các quy tắc sinh hoạt xã hội. Nhà Vua lập ra điều khiển các
công cụ công lực để kiểm soát xã hội.
Quân chủ lập hiến là mô hình thể
chế khi nhà Vua chỉ còn là Nguyên thủ tượng trưng, biểu tượng
cho chủ quyền quốc gia, tượng trưng cho tính toàn vẹn và sự
thống nhất các gía trị quốc gia. Mặc dù nhà Vua có quyền cha
truyền con nối, không phải qua bầu cử, nhưng không có quyền thực
tế trong các thiết chế quyền lực. Quyền của Quốc vương do
Hiến pháp quy định. Quyền hành pháp được một Quốc hội do dân
bầu trực tiếp giao cho Thủ tướng và Chính phủ, vẫn duy trì
Quân Vương như thời phong kiến, nhưng không có thực quyền.” Nhà
vua cai trị, nhưng không quản tri”̣.
Trong chế độ Quân chủ Lập hiến,
quyền lực tập trung vào Quốc hội là cơ quan duy nhất nắm quyền
lập pháp. Quốc hội bầu Thủ tướng và bầu ra các bộ trưởng
trong số các nghị sĩ. Việc Quốc Vương chỉ định Thủ tướng và
chấp nhận Nội các chỉ là hình thức. Goị là lập hiến vì
quyền lợi và quyền hạn của Quốc Vương do Hiến Pháp quy định.
Chính phủ chỉ chịu trách nhiện trước Quốc hội và chỉ bị bãi
miễn bởi quốc hội. Chế độ quân chủ lập hiến về nguyên tắc
giống với chế độ Cộng hoà Đại nghị, còn gọi là Đại nghị Đơn
chế hay Đại nghị Độc chế. (Parlement Moniste).
1- Quân chủ Tuyệt đối 2- Quân chủ Lập hiến
Khác với chế độ Quân chủ, trong
một chế độ chính trị khi người đứng đầu quốc gia, hay Nguyên
thủ Quốc gia, đại diện cho chủ quyền tối cao của quốc gia không
phải do cha truyền con nối mà là do dân chúng trực tiếp hay
gián tiếp bầu ra, gọi là chế độ Cộng Hoà. Chữ Cộng hoà
(répupblique) nghĩa là công cộng, ngụ ý, tất cả tài sản quốc
gia thuộc về công chúng.
Trong nền Cộng hoà, có Ba hình
thức khác nhau, đó là Cộng hoà Tổng thống và Cộng hoà Đại
nghị, vả Cộng Hoà Bán Đại Nghị hay còn gọi là Cộng Hoà Bán
Tổng Thống (sơ đồ 1).
1- Chế độ Cộng hoà Tổng Thống ra đời cùng một lúc nhằm hai mục đích:
– xóa bỏ chế độ cha truyền con nối, xoá bỏ quyền cá nhân đối với tài sản quốc gia,
– khắc phục tính chất siêu quyền
lực của Quốc hội, ban đầu là chỉ gồm một viện gọi là viện
Lãnh chúa, hay Nguyên lão, vốn xuất xứ từ nhóm quý tộc và tư
sản giàu có, quyền thế lấn át nhà Vua, không qua bầu cử. Nhóm
cá nhân này quy tụ lập ra Viện lập pháp, nhằm tước đọat
quyền lực tuyệt đối của nhà Vua và giành quyền độc lập,
quyền tự do thao túng nền chính trị quốc gia, phục vụ lợi ích
của tầng lớp tư sản công nghiệp đang lên.
Sự lộng quyền của Viện Lãnh chúa
thúc đẩy sự ra đời của viện dân cử gọi là Hạ viện, có chức
năng kiềm chế quyền lực của Viện Lãnh chúa, sau này gọi là
Thượng viện. Tuy nhiên, do thế lực xã hội rất hạn chế của các
nghị sĩ dân bầu so với các nghị sĩ thuộc thượng viện, nên
trên thực tế, Thượng viện vẫn là cơ chế chi phối có tính
quyết định và là nguyên nhân của nạn tham nhũng chính trị.
Trong chế độ Cộng hoà Tổng thống,
hai thiết chế công quyền là Lập pháp và Hành pháp tách biệt
nhau tuyệt đối. Quyền lực tuyệt đối của Cử tri được thể hiện
ngang bằng khi vừa trực tiếp bầu ra Tổng thổng, vừa đồng thời
trực tiếp bầu ra Quốc hội.
Quốc hội, mặc dù có cấu tạo
lưỡng viện, nhưng không bầu ra tổng thống vì vậy không có quyền
bãi miễn hay phế truất tổng thống. Ngược lại, Tổng hhống
cũng không có quyền giải tán Quốc hội, nhưng cũng không chịu
trách nhiệm chính trị trước Quốc hội, tức là không phải báo
cáo hay tường trình các hoạt động thuộc phạm vi quyền hành
pháp. Nếu phù hợp các cam kết giúp tổng thống thắng cử và
không trái luật, các sắc lệnh do tổng thống ký có hiệu lực
pháp lệnh tương đương luật.
Cơ quan quyền lực công thứ ba là
Toà án cũng được phân lập tách biệt và được đảm bảo tính
độc lập, thông qua việc Hiến pháp quy định các Thẩm phán do
tổng thống bổ nhiệm, có nhiệm kỳ suốt đời, với một mức thu
nhập luôn đảm bảo đủ cao để khó bị ảnh hưởng bởi các tác
động có tính tham nhũng, nhưng lại dễ dàng bị bãi miễn vĩnh
viễn chỉ do lỗi vi phạm pháp luật dù rất nhỏ.
Trong chế độ Tổng Thống quyền Hành
pháp tập trung duy nhất vào tay Nguyên thủ quốc gia. Chính phủ
không tồn tại, thực chất là Nội các hay Văn Phòng tổng thống,
gồm các Thư ký có chức năng tương tự bộ trưởng. Vì không có
quyền lực trung gian như Tổng thư ký hay Chủ tịch hội đồng thư
ký có mục đích phân tán quyền lực của tổng thống, cùng với
những quy trình phức tạp trong việc bác bỏ hay hay vô hiệu các
quyết định của Tổng Thống, cơ chế này trên thực tế tạo ra cơ
hội cá nhân hoá và nguy cơ chuyên chế hoá bộ máy hành pháp
quốc gia, trong các tình huống đặc biệt có thể chuyển hoá
thành chế độ độc tài, thậm chí phát xít. Đó là trường hợp
của HítLe, Mútxôlini, Franco, Pinochet, và gần đây là hiện tượng
Donald TRUMP và Ricardo DUTERTE gây lo ngại cho tinh thần dân chủ
và an toàn thế giới.
Trên sơ đồ 3, chúng ta thấy rõ con
đường quyền lực đi từ cử tri, qua tổng thống và nội các để
quay trở về công chúng. Tổng thống phê chuẩn luật sau khi Hạ và
Thượng viện thông qua. Quốc hội có thể kiểm sóat, sát hạch
Nội các, nhưng mang tính hình thức (vạch đứt).
Chế độ tổng thống
2- Chế độ Cộng Hoà Đại nghị hay Đại Nghị Đơn chế (Parlement Moniste).
Chế độ Bán Đại Nghị
Chế độ Cộng hoà Đại nghị ra đời
do tâm thức khắc phục nhược điểm của thể chế Tổng thống theo
khuôn mẫu Hoa Kỳ và lấy cảm hứng từ sự kế thừa di sản của
chế độ Quân chủ Lập hiến đang áp dụng tại Vương quốc Anh và
các quốc gia trong khối cộng đồng thịnh vượng chung, thuộc Liên
Hiệp Anh. Nó gần như giữ nguyên các cơ chế quyền lực theo nguyên
tắc tuyệt đối hoá quyền lực cơ quan lập pháp, tức là của
Quốc Hội.
Quốc hội, thông thường có cấu tạo Lưỡng viện.
Hạ viện bao gồm những đại biểu do
cử tri toàn quốc bầu theo chế độ phổ thông trực tiếp, bỏ
phiếu kín. Số đại biểu được tính theo số dân chúng, thông
thường một đại biểu cho 200.000-500.000 người.
Ở các nước dân chủ đa đảng, số
ghế của Hạ Viện được phân phối theo nguyên tắc tỷ lệ. các
đảng chính trị có số ghế trong Hạ viện tỷ lệ với số phiếu
giành được qua bầu cử. Nguyên tắc này đảm bảo mọi tổ chức
chính trị đều có tiếng nói trong quốc hội, phản ánh trung
thành và rộng rãi nhất ý nguyện của moị tầng lớp dân chúng
trong xã hội.
Tuy nhiên, để chế áp xu thế tầm
thường hoá cơ quan Lập pháp, kiểm soát chất lượng của Luật
Pháp, sau khi thông qua Hạ Viện, trước khi trình tổng thống phê
chuẩn, các Luật hay bộ Luật bắt buộc phải được thông qua
Thượng Viện.
Thượng Viện bao gồm các đại biểu
được chia đều cho mỗi địa phương bất kể số dân của từng địa
phương đó. Thành viên Thượng viện, goị là thượng nghị sĩ là
những cá nhân ưu tú nhất cuả mỗi địa phương, cả về năng lực
trí tuệ, năng lực xã hội và phẩm chất nhân cách. Thượng Viện
có vai trò cân bằng Quốc hội, đảm bảo tính ổn định của Pháp
Luật.
Tổng thống do Quốc hội bầu ra là
Nguyên thủ quốc gia, đại diện cho chủ quyền và hệ thống giá
trị quốc gia, nhưng chỉ mang tính biểu tượng, không có một
quyền lực hành pháp cụ thể và trực tiếp nào. Danh nghỉa bổ
nhiệm, hay bãi nhiệm Thủ tướng và các thành viên của Chính
phủ, nhưng thực chất chỉ đơn thuần là phê chuẩn đề xuất qua
kết quả bầu cử của Quốc hội.
Quốc hội bầu ra và bãi miễn Thủ
tướng chính phủ, trực tiếp bỏ phiếu phê chuẩn hay bãi mịễn
các chức danh trong nội các chính phủ theo đề nghị của Thủ
tướng. Sẽ có hai trường hợp có thể xảy ra.
Trường hợp thứ nhất, khi không
thuộc đảng có đa số trong quốc hội, vị trí Thủ tướng luôn
chịu áp lực rất lớn từ phía Quốc Hội. Chỉ một chính sách
thiếu hiệu quả, hoặc gây các phản ứng tiêu cực trong xã hội,
Thủ tướng có thể bị Quốc Hội phế truất và có thể kéo theo
toàn bộ nội các.
Trong trường hợp này, Chính phủ là
một cơ chế yếu và kém hiệu quả, có thể bị Quốc hội làm tê
liệt trong một thời gian dài, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế
và sinh hoạt xã hội. Mặt khác, Thủ tướng do quốc hội bầu ra
có thể thuộc đảng chính trị ít uy tín và thiếu một chương
trình cụ thể, gây tranh cãi và thiếu bền vững của các chính
sách, nguyên nhân của việc phải thay đổi liên tục Thủ tướng và
thành viên chính phủ, gây ra hủng hoảng chính trị nhiều khi
trầm trọng.
Trường hợp thứ hai, khi Thủ tướng
thuộc đảng có đa số, nhất là đa số tuyệt đối trong Quốc hội,
thì ngược lại, Quốc hội không còn vai trò gì đối với Chính
phủ. Nếu Thủ tướng đồng thời là thủ lĩnh của đảng đa số,
thì chế độ rơi trở lại vào chế độ Tổng thống. Moị quyền lực
nằm trong tay Thủ tướng, và không một cơ chế nào kiểm soát.
Thủ tướng có thể giải tán quốc hội, và bãi miễn Tổng thống,
bằng cơ chế đa số. Thủ tướng, dù trong trường hợp này nắm
trong tay tuyệt đối quyền hành pháp, nhưng vfì không phải là
tổng thống, nên về trên nguyên tắc và theo thông lệ Hiến pháp,
không chiụ trách nhiệm đối với Chủ quyền quốc gia và Hệ thống
gía trị quốc gia, vì vậy tiềm ẩn các nguy cơ vi phạm hiến
pháp, lạm quyền và tha hoá, nguy hại tới an ninh quốc gia và
ổn định trật tự xã hội.
Các quốc gia theo thể chế Đại Nghị
có thể kể ra hiện nay gồm các quốc gia Quân chủ Lập hiến
thuộc liên hiệp Anh, Vương quốc Bỉ, Đan mạch, Hà Lan, Canađa, Úc,
Nhật, các Quốc gia Cộng Hoà Đại nghị như Đức, Áo, Italie,
cộng Hoà Séc, Phần lan, Island, Hylạp, Ấn Độ, Liban.
Có thể thấy, chế độ Đại nghị, từ mong muốn khắc phục nhược điểm siêu quyền lực của cá nhân tổng thống, đến lượt mình, lại rơi vào việc tạo ra siêu quyền lực cho Quốc hội, vừa vô hiệu hoá, làm tê liệt chính phủ trong kịch bản Thủ tướng không có đa sô, ́vừa có nguy cơ tạo ra siêu Thủ tướng trong kịch bản ngược lại.
3- Chế độ Bán Tổng Thống – Bán Đại Nghị hay Đại nghị lưỡng chế. (Parlement Dualiste )
Thể chế chính trị Bán Tổng Thống
hay Bán Đại Nghị ra đời tại Pháp, là kết quả lai ghép giữa
hai thể chế Tổng thống và Đại nghị, có tính cực đoan rất ro, ̃
bắt đầu bằng hiến pháp 1958, được tăng cường và chính thức
vận hành năm 1962 khi Tổng thống Pháp được bầu trực tiếp bằng
phổ thông đầu phiếu.
Sự ra đời thể chế này, chiụ sự
tác động rất cơ bản của chính Tổng thống Charles De Gaulle,
người rất hiểu Nghị viện Anh đã lũng đoạn Chính phủ như thế
nào, nhưng lại nghi ngờ tính dân chủ mà chế độ Tổng thống của
Hoa Kỳ trao quá nhiều quyền lực vào tay cá nhân tổng thống.
Năm 1964 Tổng thống Charles de Gaulle
xác định vai trò của Tổng thống và Thủ tướng như sau: ” Ở
nước ta, tổng thống và Thủ tướng không phải cùng một người là
chuyện bình thường. Đúng là người ta khó có thể chấp nhận
hai đầu lĩnh trên thượng đỉnh, nhưng, đúng thế, không hề có gì
như vậy. Tổng thống là người duy nhất đại diện chủ quyền quốc
gia, nhưng, tính chính xác, tính bản chất, tầm rộng lớn, tính
kéo dài của các nhiệm vụ kéo theo sự căng thẳng không thể
buông lỏng và không có giới hạn, bởi tình hình, bởi chính
sách, bởi quốc hội, bởi kinh tế, bởi hành chính công vụ. Đối
lại, đó là bổn phận vừa phức tạp, xứng đáng vừa căn bản của
Thủ tướng.”
Sau này, được hoàn chỉnh bằng hiến
pháp 1968, thể chế Bán Tổng thống được khẳng định ở Pháp
với tham vọng cân bằng quyền lực giữa các thiết chế công quyền
của nhà nước, tránh dẫm lại vết chân của hai loại hình thể
chế Tổng Thống và Đại nghị truyền thống.
Lập pháp và Hành pháp là hai cơ
quan đều do dân bầu trực tiếp, vì vậy có tư cách pháp nhân
ngang nhau và độc lập với nhau. Nghĩa là Quốc hội không có
quyền bãi miễn Tổng Thống, nhưng laị có quyền bầu ra và bãi
miễn Thủ tướng chính phủ, là cơ quan hành pháp song song làm
đối trọng và phân tán quyền lực của Tổng Thống. Ngược lại,
mặc dù Tổng Thống không có quyền giải tán Quốc hội, không có
quyền bãi miễn Thủ tướng và giải tán Chính phủ, nhưng Tổng
Thống cũng không chiụ trách nhiệm chính trị trước Quốc hội,
nghĩa là không có trách nhiệm phải giải trình các hoạt động
trong phạm vi quyền hạn của Tổng thống phù hợp hiến pháp.
Trong chế độ Bán Đại Nghị, hay còn
gọi là Đại Nghị Lưỡng chê ́(parlement dualiste), Tổng thống giữ
vai trò Nguyên thủ quốc gia, đại diện chủ quyền quốc gia,
quyết định các chính sách của Chính phủ về mặt Ngoại giao và
Quốc phòng. Tổng thống đảm bảo tính liên tục của Quốc gia,
là người đảm bảo lợi ích chiến lược cuả quốc gia. Đồng thời,
Tổng thống là người đại diện tối cao của hệ thống quyền con
người và quyền công dân, quản chế và ngăn chặn các hành vi lạm
quyền của Chính phủ.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
do Quốc hội bầu ra theo nguyên tắc đa số tuyệt đối. Thông
thường, Chính phủ do đảng chính trị hay liên minh các đảng
chiếm đa số ghế trong Quốc hội thành lập. Thủ tướng thường
đồng thời được bầu bởi đảng đa số hay đảng ưu thế trong liên
minh đa số. Vì luôn là lực lượng chiếm đa số ghế trong Quốc
hội, nên trên thực tế, Quốc hội nằm trong tay Thủ tướng.
Chế độ lưỡng đầu chế này có tác
dụng vừa san bớt quyền lực của tổng thống vừa khống chế
quyền lực của Quốc hội, nhưng đồng thời làm giảm tính hiệu
quả của các thiết chế thực thi pháp luật và khả năng thích
ứng hoàn cảnh của các chính sách kinh tế, chính trị và xã
hội.
Tổng Thống có thể không thuộc đảng
phái nào, nhưng trên thực tế, nếu không thuộc một đảng chính
trị nhất định, cá nhân ứng viên thường không đủ khả năng tiến
hành vận động, và ít khả năng đọat đủ phiếu bầu.
Ở chế độ Bán Đại Nghị, hay Đại
Nghị lưỡng chế, hay còn gọi là chế độ Bán Tổng Thống, có hai
khả năng phải đối diện:
Một, là khi Tổng thống đồng thời
là Thủ lĩnh của đảng chính trị chiếm đa số trong Quốc hội.
Nói chung, điều này thường xảy ra trong nhiệm kỳ đầu, vì khi
cử tri ủng hộ chương trình của Tổng thống , thì tiếp tục ủng
hộ chương trình của cùng một đảng khi bầu Quốc hội. Trong
trường hợp này, Thủ tướng thường do Tổng thống chỉ định vì
Tổng thống thường là chủ tịch đảng. Ở đây có sự nhất quán
giữa đường lối của Tồng thống với chính sách của Chính phủ.
Cơ chế nhị nguyên của Hành pháp gần như không còn hiệu lực,
thiết chế công quyền trở về gần với dạng Tổng thống chế. Các
quyết định của Tổng thống trở nên có hiệu lực và Chính phủ
làm việc có hiệu quả cao. Tuy nhiên, vì Hiến pháp quy định
chính phủ chịu sự quản chế của Quốc hội, nên trên thực tê,́
các quyết định của Tổng thống không có tính độc đoán của thể
chế Tổng Thống.
Trong trường hợp thứ hai, khi Thủ
tướng không cùng đảng chính trị với Tổng thống. Trường hợp
này thường xảy ra khi trong nhiệm kỳ đầu, Tồng thống và Chính
phủ hoạt động kém hiệu quả, không tạo đủ niềm tin của công
chúng. Đa số của cử tri ủng hộ chương trình của đảng đối lập.
tổng thống đứng đầu một đảng, trong khi Thủ tướng đứng đầu
chính phủ thuộc đảng đối lập. Trong trường hợp này, điểm tích
cực là với các chính sách mới, Chính phủ mới có khả năng
ngăn chặn được kịp thời những sai phạm mắc phải trong các
chính sách của Tổng thống và Chính phủ nhiệm kỳ trước. Tuy
nhiên, vì không cùng hệ thống chính trị và không cùng chương
trình, nên các chính sách thường gặp khó khăn trong việc thực
thi. Lưỡng đầu quyền lực, tổng thống và Thủ tướng thường
khống chế, cản trở lẫn nhau.
Chế độ Bán tổng thống có tác
dụng ngăn chặn sự quá đà dẫn đến chuyên chế của Tổng thống
vừa có khả năng ngăn chặn xu hướng siêu quyền lực của Quốc
hội, dễ gây ra tình trạng lũng đọan pháp luật hoặc ngược lại
tha hoá phẩm chất pháp luật.
Nếu Tổng thống thực sự có năng
lực và chương trình kinh tế xã hội thực sự có kết quả, thì
nhiệm kỳ tiếp theo, chính phủ và tổng thống tiếp tục thuộc
cùng đảng đa số Quốc hội, có được tính nhất quán, tạo sự
năng động và hiệu quả. Lúc này, Nhà nước có mô hình hoạt
động gần với chế độ Tổng thống.
Ngược lại, nếu trong nhiệm kỳ đầu,
năng lực và sai phạm trong các chính sách đã thể hiện rõ,
thì ngay lập tức tình trạng đó được ngăn chặn và khắc phục
bằng một Quốc hội có đa số thuộc đảng chính trị đối lập.
Người điều hành chính phủ thuộc đảng phái khác, thực thi các
chính sách kinh tế xã hội khác dưới sự ủng hộ bảo trợ của
Quốc hội. Vai trò Tổng thống lui về chức năng trọng tài và
bảo đảm các giá trị quốc gia phù hợp Hiến pháp, giống như
trong chế độ Đại nghị truyền thống.
Chế độ Bán Tổng thống có kết cấu
gần nhất với các đặc trưng cần có của một nhà nước dân chủ
Đa nguyên. Tương ứng với hai chức năng chính của nhà nước là
Đại diện Chủ quyền quốc gia và hệ thống giá trị quốc gia là
Tổng thống và Đại diện lực lượng chính trị tiến bộ năng
động, đáp ứng đòi hỏi tình huống là Thủ tướng chính phủ.
Tổng thống có tính bền vững hơn, với nhiệm kỳ có thể dài
hơn, trong khi Chính phủ có thể luân phiên giữa các đảng phái
chính trị khác nhau trong một chế độ đa nguyên chính trị.
***
Trong các phân tích trên đây, có thể
rút ra một nhận xét rằng, với ba loại hình đặc trưng hiện nay
về kết cấu thể chế, mỗi kiểu mẫu đều có những ưu khuyết
điểm nhiều ít khác nhau, không có mô hình nào có ưu thế vượt
trội khuynh loát. Vì vậy, việc quyết định lựa chọn mô hình
này hay mô hình khác có lẽ sẽ phải cân nhắc chủ yếu dựa trên
các điều kiện đặc trưng về lịch sử, về văn hoá, các đặc điểm
phương pháp tư duy và các đặc tính tập quán sinh hoạt cuả
cộng đồng mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, cần chú ý một điều đặc biệt khi quan sát các sơ đồ thể chế trên đây, có một quy luật được thể hiện rất rõ, rằng, chỉ ở chế độ Quân chủ, cả Tuyệt đối lẫn Lập hiến, quyền lực phát ra từ Vua và Quốc hội, theo một chiều duy nhất từ trên xuống, còn lại, ở các thể chế Cộng Hoà, quyền lực xuất phát từ Dân chúng, từ dưới lên, rồi mới quay lại tác động vào Dân, từ trên xuống. Đặc biệt với các chế độ Dân chủ thì Cử Tri là cơ chế quyền lực cao nhất, trên cùng. Điều 21-3 của Tuyên ngôn phổ cập nhân quyền quốc tế do Liên Hợp quốc tuyên bố năm 1948, có nói “Ý chí của dân chúng là nền tảng của moị quyền lực”.
Mọi thể chế có kết cấu khác đều
không được phép tự nhận là Dân chủ. Chế độ độc đảng cộng
sản hiện nay tại Việt Nam là chế độ có hệ thống quyền lực
từ trên xuống. Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa nói “Hiến
pháp là thể chế hoá cương lĩnh của đảng”, lại vừa kêu “Dân chủ
đến thế là cùng”! Với những cái đầu có não trạng như vậy,
ít người đủ tri thức để mất thì giờ tranh luận với họ. Có
thứ Dân chủ nào mà cơ quan quyền lực cao nhất lại không phải
là Cử tri không? Chỉ có thứ dân chủ nằm trong túi nhà Độc
tài. Có loại độc tài công khai, có loại độc tài dấu mặt.