Phỏng vấn Nguyễn Gia Kiểng (Vietinfo)
"...Ngôn ngữ FB và Twiter mà
tôi gặp thường ngày không tạo ra những tiếng mới mà thường chỉ là cách
viết lóng, đôi khi ẩu, một từ có sẵn, thí dụ như "rùi" thay cho "rồi".
Điều mà chúng ta cần là những từ mới để chỉ những khái niệm mới. Trong
nhiều trường hợp chúng ta có thể lấy ngay tiếng Anh thay vì cố dịch ra
tiếng Hán Việt và làm sai nghĩa và không giúp chúng ta tiếp thu một khái
niệm mới một cách đúng đắn..."
Phỏng vấn Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn Gia Kiểng là một tên tuổi không mới lạ đối với người Việt nói chung. Ông tốt nghiệp kỹ sư và học lên cao học kinh tế tại Pháp. Ông được biết đến nhiều với tư cách là một trong những người sáng lập ra tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên. Cuốn Tổ quốc ăn năn mà ông là tác giả, cũng mang lại nhiều ý kiến trái chiều.
Phỏng vấn Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn Gia Kiểng là một tên tuổi không mới lạ đối với người Việt nói chung. Ông tốt nghiệp kỹ sư và học lên cao học kinh tế tại Pháp. Ông được biết đến nhiều với tư cách là một trong những người sáng lập ra tổ chức Tập hợp dân chủ đa nguyên. Cuốn Tổ quốc ăn năn mà ông là tác giả, cũng mang lại nhiều ý kiến trái chiều.
Tháng 5/2015, một tác phẩm mới của ông nhan đề Khai sáng
kỷ nguyên thứ hai, đã được giới thiệu với bạn đọc người Việt
tại Mỹ. Tháng 6/2015, sách được giới thiệu với bạn đọc Việt
tại Paris.
Ngày 17/12/2016, Nguyễn Gia Kiểng sẽ có mặt tại Praha để mang
nội dung sách đến với cộng đồng người Việt tại Séc.
Bài phỏng vấn này với tác giả Nguyễn Gia Kiểng chỉ nhằm
mục đích tiếp cận cuốn sách mới thông qua cuốn sách đầu tiên
và tác giả của chúng, để rồi sau đó cùng mở ra một cánh cửa
mời cộng đồng Việt tại Séc đến đàm thoại cùng tác giả. Vì
một vài lý do, bài phỏng vấn được thực hiện trong một thời gian rất gấp,
và được gửi nguyên văn để các bạn đọc tự cảm nhận.
*****
Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, xin thú thực rằng đọc Tổ quốc ăn
năn đã lâu và đã không còn nhớ chi tiết, em đã chọn ra một
cách tình cờ hai chương là Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi và Hồ
Quý Ly và Mạc Đăng Dung để dành cho phạm vi bài phỏng vấn này.
Nếu như anh Nguyễn Gia Kiểng muốn chọn chương nào khác, xin anh
hãy cho biết.
1/ Tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi
TM: Mở đầu bằng câu thơ của Phạm Duy, chương Tiếng mẹ
ru từ lúc nằm nôi như "ném" người đọc về lại với dòng sông êm
đềm mang tên quê hương và tuổi thơ, để rồi phải trực diện với
một nhận định khá... đanh thép của tác giả rằng "Một lý do quan
trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường
tiếng Việt". Tuy nhiên chỉ dưới đó một đoạn, tác giả viết:
"Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông
hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát
biểu; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và
gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt
bỏ."
Đầu tiên, xin anh cho giải thích hộ "Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ" là sao?
NGK: Xin cảm ơn Thanh Mai đã đặt câu hỏi này. Phải
nhìn nhận một sự thực là cộng đồng người Việt hải ngoại đã mất căn cước
văn hóa một cách rất nhanh chóng. Thế hệ thứ hai hầu như không còn sử
dụng tiếng Việt nữa, họ đã gạt bỏ tiếng Việt. Họ phát biểu lưu loát hơn,
mạch lạc hơn nhưng bằng tiếng Pháp, tiếng Anh hay tiếng Đức, tiếng của
đất nước mà họ sinh ra hoặc lớn lên. Tại sao như vậy là một đề tài thảo
luận lớn nhưng một trong những lý do chính là văn hóa của chúng ta không
phong phú và ngôn ngữ cũa chúng ta quá sơ sài, cha mẹ không có gì để tự
hào và cố gắng truyền lại cho con cái. Dân tộc nào xét cho cùng cũng
gắn bó với nhau vì một vài cuốn sách lớn về giá trị văn học và tư tưởng,
chúng ta thiếu những cuốn sách như thế.
TM: Thực tế là thế hệ trẻ ở hải ngoại phần đông
đều không nói tiếng Việt tốt. Do ảnh hưởng của văn hóa, văn
minh phương Tây, họ (hầu như) không (được phép) khinh thường bất
cứ điều gì, nhất là con người. Ngoại ngữ Anh, Pháp của họ
tốt như tiếng mẹ đẻ, tốt hơn hẳn thế hệ thứ nhất. Nhưng như
anh nói, họ làm truyền thông rất tốt. Vậy hình như truyền
thông tốt hay không tốt, không hoàn toàn phụ thuộc vào tiếng
Việt, thưa anh! Và xin anh giải thích thêm.
NGK: Theo tôi họ truyền thông giỏi hơn chính nhờ sử
dụng ngay từ đầu đời một ngôn ngữ phong phú và chính xác hơn. Ngôn ngữ
quyết định phẩm chất của thông điệp và giá trị của truyền thông. Đàng
sau mỗi ngôn ngữ là một cách suy nghĩ. Tiếng Việt của chúng ta còn sơ
sài quá, chúng ta thiếu nhiều chữ, thí dụ như những chữ concept,
conception, conceptualisation, conceptualiser, concevoir trong tiếng
Pháp chúng ta chỉ có một từ "khái niệm" hoặc "quan niệm". Mặt khác tiếng
Việt cũng chưa biết ghép tính từ với danh từ để tạo ra một tiếng mới,
thí dụ như chữ "vĩ nhân" mà chúng ta mượn từ chữ Hán. Vĩ nhân là một
khái niệm khác do cách ghép chữ vĩ, tính từ, với chữ nhân, danh từ,
trong đó tính từ được đặt trước danh từ. Trong tiếng Việt tính từ chỉ
đặt sau danh từ để nói lên một đặc tính chứ không tạo ra một từ mới. Tôi
không phải là một nhà ngữ học, tôi chỉ sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt ý
kiến nhưng cũng thấy khó khăn của tiếng Việt so với hai ngôn ngữ khác
mà tôi biết là tiếng Pháp và tiếng Anh. Ngôn ngữ cũng phần nào tiết lộ
lịch sử của một dân tộc. Các ngôn ngữ tiến bộ thường đặt nền tảng trên
hai động từ "có" và "là", tôi là ai và tôi có gì. Trong tiếng Việt động
từ nền tảng lại là "ăn". Ăn nói, ăn ở, ăn trộm, ăn cướp, ăn tiền, ăn
nằm, ăn ảnh, ăn năn, ăn thua v.v. Sự kiện chúng ta đồng hóa "thắng" và
"ăn", nghĩa là kẻ thắng với kẻ được ăn, kẻ thua với kẻ không được ăn
cũng chứng tỏ rằng trước khi tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa chúng
ta còn ở một trình độ phát triển rất thấp. Mặt khác kinh nghiệm của các
dân tộc đã chứng tỏ rằng một dân tộc muốn tiến lên phải sử dụng ngôn ngữ
của mình chứ không thể vay mượn một ngôn ngữ khác dù hoàn chỉnh đến
đâu. Hãy so sánh Hàn Quốc và Philippines. Chúng ta không có chọn lựa nào
khác hơn là cải tiến tiếng Việt nếu muốn vươn lên.
TM: "Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện
và phong phú nó – thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm,
chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới – rồi tiếp tục phát huy nó.
Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng" Anh viết những dòng
trên đây vào thời điểm khi chưa có blog, chưa có các diễn đàn
và mạng xã hội, và cùng với nó chưa có các ngôn ngữ @.
Anh có hài lòng với sự sáng tạo ngôn ngữ của lớp
trẻ ngày nay? Tại sao? Anh có thể cho biết, sự sáng tạo trong
ngôn ngữ cần bao hàm giá trị gì để anh có thể hài lòng với
nó?
NGK: Tôi chưa thể hài lòng. Ngôn ngữ FB và Twiter mà
tôi gặp thường ngày không tạo ra những tiếng mới mà thường chỉ là cách
viết lóng, đôi khi ẩu, một từ có sẵn, thí dụ như "rùi" thay cho "rồi".
Điều mà chúng ta cần là những từ mới để chỉ những khái niệm mới. Trong
nhiều trường hợp chúng ta có thể lấy ngay tiếng Anh thay vì cố dịch ra
tiếng Hán Việt và làm sai nghĩa và không giúp chúng ta tiếp thu một khái
niệm mới một cách đúng đắn. Thí dụ như politics có nghĩa là "việc của
thành phố", nghĩa là "việc nước" vì vào thời cổ Hy Lạp mỗi thành phố là
một nước nhỏ. Chúng ta dịch politics thành "chính trị", một khái niệm
gần như đồng nghĩa với cai trị hay quyền lực. Hậu quả là người ta không
thấy chính trị ngày nay phải khác hẳn với ngày xưa. Nhiều người nói "tôi
không quan tâm tới chính trị" là do cách hiểu đó. Nếu thay vì chính trị
chúng ta dịch là "việc nước" thì chắc ít ai nói "tôi không quan tâm tới
việc nước".
2/ Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung
TM: Hẳn là để viết chương này anh đã phải nghiên cứu
nhiều sách lịch sử, mặc dù không thấy anh dẫn nguồn tư liệu
như thói quen thường gặp ở các học giả được đào tạo lâu năm ở
phương Tây như anh. Để hiểu thêm chương sách, xin anh cho biết,
"người ta" là ai. Ai là người "trọng Hồ khinh Mạc" mà hình như anh
đang phản biện? Và các nguồn sách, tác giả nào đã được anh
tin tưởng sử dụng.
NGK: Như tôi đã xác nhận trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn
và trong nhiều dịp khác tôi không phải là một nhà nghiên cứu. Tôi là một
người hoạt động chính trị. Người hoạt động chính trị cần nói những điều
đúng, hay ít nhất những điều mà mình có lý do vững chắc để tin là đúng,
nhưng không cần dẫn nguồn một cách tỉ mỉ như một nhà khảo cứu. Về Hồ
Quí Ly và Mạc Đăng Dung trong tất cả các bài học lịch sử mà tôi đã học ở
tiểu học và trung học và trong hầu như tất cả các sách sử mà tôi đã đọc
hầu như lúc nào Hồ Quý Ly cũng được ca tụng là người tài giỏi dù đôi
khi cũng bị chê là đã làm mất nước, trong khi Mạc Đăng Dung thì hầu như
lúc nào cũng bị mạt sát. Tôi cũng đã thảo luận với nhiều trí thức và
cũng thấy như vậy. Tôi thấy đây là một thành kiến sai. Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê là chuyện cung đình của giai cấp thống trị nhưng Mạc
Đăng Dung không làm mất nước. Trái lại Hồ Quý Ly chỉ là một người bất
tài tham lam và làm mất nước. Nên nhớ Hồ Quý Ly không tự coi là người
Việt. Ngay khi cướp được ngôi của nhà Trần ông ta đã đổi tên nước là Đại
Ngu theo tên nước cũ của ông bên Tầu. Ông ta đã làm đất nước tan hoang
và sau cùng cả vua tôi phải đầu hàng bẩy tên lính của nhà Minh.
Những điều này mọi sách sử của Việt Nam đều ghi. Tôi cũng nhân dịp
này giới thiệu một bộ sử mới mà tôi cho là bộ sử đầy đủ và đúng đắn nhất
của Việt Nam. Đó là bộ "Nhìn lại sử Việt" của Lê Mạnh Hùng. Mọi người
quan tâm đến lịch sử Việt Nam đều nên đọc bộ sử này.
TM: Trong chương viết này chỉ viện dẫn đánh giá của
Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly, ngoài ra không có bất cứ ý kiến
nào ngoài ý kiến chủ quan của tác giả. Trong khi đó, Mạc Đăng
Dung sinh sau Nguyễn Trãi, vì vậy Nguyễn Trãi không thể có bất
cứ ý kiến gì về Mạc Đăng Dung
Anh nói sao nếu như có ai đó cho rằng đưa vào chương
viết đánh giá của Nguyễn Trãi với Hồ Quý Ly chỉ là bao biện?
(*)
NGK: Tôi không hiểu lập luận này. Nguyễn Trãi là một
trí tuệ lớn của Việt Nam. Bài Bình Ngô Đại cáo của ông gần như một
tuyên ngôn độc lập. Viện dẫn Nguyễn Trãi đâu có gì là sai trái, không
nhắc tới quan điểm của ông là một thiếu sót.
TM:Chương viết kết thúc bằng câu:
"Cho đến ngày nay, lập trường trọng Hồ khinh Mạc vẫn còn ngự
trị, điều đó chứng tỏ trí tuệ tập thể chúng ta vẫn còn mê muội, tâm lý
của chúng ta vẫn chưa được khai thông“
Cũng vẫn để hiểu thêm thông điệp của tác giả, xin anh
cho biết, phải chăng không trọng Hồ, không khinh Mạc mới là đúng?
Hay là phải trọng Hồ, phải trọng Mạc? Hay là tuân thủ nguyên
tắc dân chủ mỗi chúng ta có quyền được tiếp cận thông tin, tài
liệu khác nhau từ các nguồn nghiên cứu lịch sử khác nhau và
có quyền bảo lưu ý kiến của mình và đồng thời tôn trọng ý
kiến người khác? Và cuối cùng thì thông điệp mà anh muốn
chuyển tải ở chương này là gì?
NGK: Điều tôi muốn truyền tải chỉ giản dị là không
nên đọc lịch sử để khen hay chê mà để hiểu dân tộc mình qua mỗi giai
đoạn. Thí dụ như việc nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê phải được nhìn đúng với ý
nghĩa của nó. Sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc nước ta đã thay đổi.
Thành phần thượng lưu vùng châu thổ sông Hồng, với trung tâm là Hải
Dương, quê hương của Mạc Đăng Dung, đã hội nhập vào văn hóa Trung Hoa
trong khi giai cấp quí tộc vùng Thanh Hóa - Nghệ An vẫn còn giữ bản sắc
Văn Lang và ý chí độc lập. Các vua Lê dù làm chủ nước Việt vẫn tự coi là
các động chủ Mường. Tình trạng này gây mâu thuẫn với giới nho sĩ miền
Bắc và cuối cùng đưa đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi. Nên lưu ý là các
danh sĩ Bắc Hà như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan tuy không hưởng
ứng nhưng cũng không phản đối việc thoán đoạt này. Còn việc Hồ Quí Ly
cướp ngôi nhà Trần thì chỉ thuần túy vì lòng tham. Hồ Quý Ly đã làm đất
nước kiệt quê và cuối cùng mất về tay nhà Minh. Dù không lên án Hồ Quý
Ly phản nghịch cũng phải luận tội làm mất nước.
*****
600 trang sách Tổ quốc ăn năn là một nỗ lực kiên trì và khổng lồ.
Đoạn dưới đây trong chương kết của Tổ quốc ăn năn có lẽ
chính là thông điệp ngắn gọn và giá trị nhất của toàn bộ
cuốn sách:
„Kinh tế không phải là tất cả. Hạnh phúc của một dân tộc không phải
chỉ là lợi tức trung bình trên mỗi đầu người, càng không phải là tỷ lệ
tăng trưởng 5 hay 10% mỗi năm. Còn nhưng điều cao hơn, và cao hơn nhiều.
Đó là phẩm giá, là quyền được nói và làm điều minh muốn, là quyền được
sống mà không sợ bị bắt giam vô cớ, được phát triển khả năng của mình mà
không cần đút lót, và được tham dự vào những quyết định quan trọng cho
cộng đồng. Những điều này chỉ có một chế độ dân chủ có thể đem lại.“
Có lẽ nó cũng là tiền đề để bước vào cuốn sách thứ hai
của tác giả, mang tên Khai sáng kỷ nguyên thứ hai, hơn 280 trang,
được giới thiệu trên trang facebook của Tập hợp dân chủ đa nguyên
từ tháng 2/2015.
3/ Khai sáng kỷ nguyên thứ hai: ở đây, xin chỉ chú trọng vào
chương 7 của cuốn sách - Đấu tranh thiết lập dân chủ đa nguyên.
TM: Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, cuốn sách đưa ra 4 điều
kiện cần và đủ cho cuộc cách mạng dân chủ và 5 giai đoạn vận
động dân chủ - hơi tương tự khuôn mẫu 3 không 4 tốt của Trung Hoa,
nhưng không sao nếu như logic.
Điều kiện đầu tiên nói rằng "mọi người trong nước đồng ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi"
Vaclav Havel cho rằng, mỗi con người trong chế độ cộng
sản đều là một mắt xích giúp cho cỗ máy chuyên chế vận hành.
Họ vừa là nạn nhân vừa là đồng phạm. Họ có thể cho rằng
tình trạng hiện hữu là tệ hại. Song để thay đổi thì không. Và
không dám, như vẫn đang không dám tại Việt Nam và Cuba.
Tập hợp có kế sách gì với tình trạng này?
NGK: Điều hiển nhiên không ai có thể chối cãi là trừ
một thiểu số trục lợi rất nhỏ mọi người Việt Nam hiện nay đều đồng ý
rằng chế độ cộng sản là rất tệ hại và phải thay đổi, tuy vậy quần chúng
vẫn phải sống và để sống họ phải miễn cưỡng hợp tác với chế đô và gián
tiếp giúp nó tiếp tục tồn tại. Đó là một nghịch lý. Điều chúng ta cần ý
thức là mỗi dân tộc đều là sản phẩm của lịch sử của chính mình và do đó
có mức độ đoạn tuyệt và vùng dậy khác nhau. Đó là mức độ mà sự phẫn nộ
biến thành ý chí đấu tranh và khiến con người lấy quyết định đứng dậy.
Tại nước ta và Trung Quốc điểm đoạn tuyệt đó lâu đạt đến vì di sản văn
hóa. Do truyền thống Khổng Giáo chúng ta chỉ có những người khoa bảng
chuyên môn với chức năng làm công cụ cho chính quyền chứ không có những
con người dám và có thể suy tư một cách độc lập về những vấn đề của đất
nước và dám chấp nhận mọi thử thách để tranh đấu cho lập trường của
mình, nghĩa là những trí thức chính trị. Chính sự thiếu vắng những trí
thức chính trị đã khiến chúng ta không ý thức được rằng chấm dứt độc tài
và thiết lập dân chủ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử nước ta
và không nhìn thấy những điều kiện phải có hoặc phải tạo ra để thành
công cuộc cách mạng này. Cũng vì sự thiếu vắng này mà chúng ta không
đồng ý được với nhau về lộ trình vận động dân chủ và những việc phải làm
cho mỗi giai đoạn. Cố gắng của THDCĐN là góp phần giúp trí thức Việt
Nam nhìn rõ những điều kiện phải hội đủ và những chặng đường phải đi qua
trong cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ý chí đấu tranh sẽ đến khi người ta
hiểu phải làm gì. Không có gì mạnh bằng một ý kiến đã chín muồi. Chúng
tôi tin rằng tình hình đang chín muồi. Chúng ta đã bắt đầu có những trí
thức chính trị và hàng ngũ của họ ngày càng đông.
Các giai đoạn trong 5 giai đoạn dưới đây đều có gì đó
như tương đồng với các giai đoạn tiến tới giành chính quyền
ngày xưa những năm 1945. Không ít các cơ sở quần chúng ngày đó
đã bị thủ tiêu. Không ít các phương tiện được dùng không đúng
mục đích.
5 giai đoạn của cuộc vận động dân chủ - xây dựng một
cơ sở tư tưởng - xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt - xây
dựng kiểm điểm phương tiện - xây dựng cơ sở quần chúng - tiến
công giành chính quyềnXin anh Nguyễn Gia Kiểng cho biết tại sao
người dân vẫn nên tin mô hình này, cho dù lịch sử đã trải qua
các kinh nghiệm cay đắng đến nhường kia?
NGK: Bốn điều kiện cần và đủ để cuộc cách mạng dân
chủ thành cộng và năm giai đoạn của cuộc vận động dân chủ là thành quả
của một nghiên cứu chăm chú các cuộc cách mạng lớn trên thế giới. Khi
chúng tôi đi đến kết luận này nhiều anh em trong nhóm khởi đầu của
THDCĐN đã bỏ cuộc vì thấy cuộc đấu tranh quá dài và khó khăn. Nhưng đó
là một kết luận khách quan mà ta phải tin và chấp nhận dù muốn hay
không. Người ta không thể thành công một công trình nào cả nếu không
biết trước phải làm những gì và phải làm như thế nào. Trong dự án chính
trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai chúng tôi đã nhận định rằng hai giai
đoạn đầu đòi hỏi nhiều thời gian và cố găng nhất, thường thường phải vài
thập niện, nhưng một khi hai giai đoạn này đã hoàn tất thắng lợi có thể
giành được rất nhanh chóng, trong vài năm, thậm chí vài tháng. THDCĐN
đã kiên trì theo đuổi lột trình này và có thể nói hai giai đoạn này đã
hoàn tất được một phần lớn.
Chúng ta càng có lý do để lạc quan vì một làn sóng dân chủ mới, làn
sóng dân chủ thứ tư trong lịch sử thế giới, đang trào dâng và sẽ cuốn đi
những chế độ độc tài cuối cùng. ĐCSVN đại diện cho một quá khứ bắt buộc
phải qua đi trong khi dân chủ đa nguyên là một tương lai bắt buộc phải
đến và sắp đến.
Danh sách các câu hỏi còn dài, kính mời cộng đồng tham gia một cuộc đối thoại thực sự cởi mở.
Buổi
gặp gỡ với ông Nguyễn Gia Kiểng và giới thiệu sách Khai Sáng Kỷ Nguyên
Thứ Hai sẽ được nhóm Văn Lang tổ chức vào ngày 17/12/2016 tại Phòng họp
Hotel Lifestyle. V Lužích 999/1, 142 00 Praha-Libuš.
(*)Chú thích (Theo wiki) Hồ Quý Ly 1336 – 1407; Nguyễn Trãi 1380 - 1442; Mạc Thái Tổ 1483 - 1541
Thanh Mai- vietinfo.eu