Ánh sáng và đôi mắt (Nguyễn Gia Kiểng)
"...Điều
thực sự quan trọng mà triết mang lại là sự sáng tỏ về khái niệm và ngôn
ngữ. Nói một cách khác, triết giúp cho chúng ta biết chúng ta đang nói
về cái gì..."
Ánh sáng và đôi mắt (Nguyễn Gia Kiểng)
LTS : Bài này được viết mùa hè 2003 nhưng không có tính thời sự vì là một bài viết về triết, chính xác hơn là về tri thức học. Chi tiết thời sự duy nhất là về vụ án Phạm Hồng Sơn, nhưng cũng chỉ là một thí dụ về như cầu chính xác trong khái niệm và ngôn ngữ. Phạm Hồng Sơn bị kết tội gián điệp vì liên lạc với Nguyễn Gia Kiểng. Trước tòa Phạm Hồng Sơn không nhận tội mà còn phủ nhận tư cách của tòa án và yêu cầu được dùng quyền ra khỏi phòng xử vì không muốn chứng kiến một trò hề công lý. Phạm Hồng Sơn bị xử 8 năm tù sau giảm xuống còn 5 năm. Thái độ dũng cảm này cần được nhắc lại.
Bạn
tôi từ Mỹ sang chơi đem cho hai cuốn sách triết. Tác giả là một trong
những nhân vật rất có uy tín. Khi ông qua đời, có nhà bình luận coi ông
đã là bộ óc vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Uy tín của tác giả bảo đảm giá
trị của tác phẩm. Tôi không biết lý do tại sao anh bạn cho tôi hai cuốn
sách này. Điều tôi biết chắc chắn là mình được hai cuốn sách quí.
Anh bạn về Mỹ thì Paris bị một cơn nóng chưa từng có. Nóng liên tục
trên 40°C trong hai tuần lễ. Không phải là cái nóng nung người như một
nhà thơ (Nguyễn Khuyến?) nói mà là cái nóng chết người. Nước Pháp đã có
hơn 10.000 người chết vì nóng. Cách tự vệ của tôi là uống thật nhiều
nước, tắm thật nhiều lần mỗi ngày và không làm gì cả. Không làm gì, tôi
bèn đem hai cuốn sách mới được tặng ra đọc. Kết quả cụ thể là điều trước
đó tôi biết chắc một trăm phần trăm (được hai cuốn sách) trở thành
không chắc chắn chút nào.
Hai cuốn sách đó bàn về sự hiểu biết, đặt những vấn đề như ta thực sự
biết cái gì và có thể chắc chắn về những gì. Kết luận là không có gì
hoàn toàn chắc chắn. Tất cả đều chỉ là qui ước, giả thuyết, thói quen và
xác xuất. Tất cả đều đáng ngờ vực.
Descartes chắc chắn một điều là ông ta quả có thực, bằng cớ là ông đang suy nghĩ. Ông đã nổi tiếng với câu "Je pense, donc j'existe"
(tôi đang suy nghĩ vậy chắc chắn là có tôi). Nhưng cũng không thiếu
những triết gia phê phán Descartes là kết luận vội vã. Cái gì bảo đảm là
ông không đang mơ ngủ, tưởng rằng mình có thực và suy nghĩ. Trong giấc
mơ thiếu gì lần ta mơ ta là một nhân vật nào đó hoàn toàn không có thực.
Trang Tử mơ thấy mình là một con bươm buớm. Con bướm đó cũng suy nghĩ,
nhưng nó không có thực. Vậy cuốn sách tôi đang đọc đây đã có gì là bảo
đảm là có? Và cả chính tôi nữa. Dù tôi đang đọc và cố theo dõi những lý
luận của tác giả. Tất cả có thể chỉ là mộng mị. Giác quan cho ta một số
cảm nhận, như ta đang cầm một cuốn sách, trước một cái bàn, trên đó có
một ly nước và ta tin là cuốn sách, cái bàn và ly nước có thực bởi vì ta
không có lý do gì để phản bác sự hiện hữu của chúng. Nhiều khi ta có lý
do cụ thể để phải hành động như là một cái gì đó có thực. Như khi bà xã
nổi giận cầm cán chổi đập ta thì ta phải chạy, mặc dầu động tác chạy
này không có cơ sở triết học vì không có lý do nào hoàn toàn chắc chắn
để bảo đảm về mặt triết lý rằng vợ ta và cây chổi có thực. Tất cả vẫn có
thể chỉ là hoang tưởng, là mộng mị, như Trịnh Công Sơn "gọi tên em mãi suốt cơn mê này".
Tôi không có thiên khiếu về môn siêu hình học nên đối với những vấn đề
loại này tôi chỉ đọc để biết và giải khuây mà thôi. Cứ cho rằng thế giới
chung quanh, và chính tôi, chỉ là giả thuyết thì tôi cũng chấp nhận
sống trong giả thuyết đó và coi là có thực. Và trong cái thế giới tôi
coi là có thực nhưng có thể chỉ là hoang tưởng này tôi vẫn tin là có
những điều ta có thể coi là chắc chắn, như 2 cộng với 2 là 4.
Tuy nhiên, ngay cả sự thật rất hiển nhiên là "2 cộng với 2 là 4" cũng
đã là một đề tài tranh cãi chưa thực sự ngã ngũ trong hàng chục thế kỷ
nay giữa các triết gia, dù đã làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực và
chất xám. Thực ra nó không hiển nhiên như ta tưởng. Nhiều triết gia coi
đó chỉ là kết quả của thực nghiệm. Ta thấy hai con gà và hai con gà là
bốn con gà, hai con vịt và hai con vịt cũng là bốn con vịt, v.v. rồi kết
luận 2 cộng với 2 là 4 trong mọi trường hợp. Trong trường hợp của cá
nhân tôi thì đây quả là một điều được áp đặt một cách thô bạo, tôi phải
học thuộc lòng bảng cộng và bảng nhân chứ chưa có thầy cô nào chứng minh
cho tôi cả. Không thuộc thì ăn đòn, thế thôi.
Rốt cuộc thì sau hơn một tuần lễ vật lộn với những ý kiến rất mạch lạc
của tác giả - trời nóng quá làm trí óc cũng chậm lại - tôi chỉ học được
vài điều. Một trong những điều đó là không có gì hoàn toàn chắc chắn,
chúng ta chỉ có thể cố gắng để tới thật gần sự chính xác, càng gần càng
hay nhưng không bao giờ nắm được, và đây là một cố gắng cực kỳ cam go.
Có lẽ vì thế mà đa số chúng ta không thích triết. Khó khăn mà lại ít kết
quả. Số ít ỏi kiến thức học được lại chẳng có công dụng cụ thể nào cho
cuộc sống.
Tuy nhiên, có một điều hơi yên tâm là triết gia đầy uy tín này cũng
nhìn nhận là trong một vài trường hợp ta có thể coi là đúng những kết
luận rút ra từ quan sát và lý luận. Trong tinh thần ấy tôi cũng tự cho
phép mình một kết luận, đó là triết không đến nỗi vô ích và có thể còn
cần thiết, thậm chí rất cần thiết, cho mọi xã hội và mọi dân tộc.
Chúng ta quan sát thấy rằng mọi tiến bộ ngoạn mục trong các xã hội đều
đi đôi với sự phát triển của triết, ngược lại sự thiếu vắng hay trì trệ
của triết cũng đi đôi với sự trì trệ hay tụt hậu của xã hội. Xã hội cổ
Hy Lạp đã có một nền văn minh rực rỡ cùng với các triết gia lớn và các
tư tưởng lớn. Khi các tư tưởng này lan sang La Mã, chúng cũng đã khiến
La Mã trở thành văn minh và bá chủ thế giới phương Tây. Chúng ta quan
sát thấy xã hội Trung Hoa đã dẫm chân tại chỗ hơn hai nghìn năm sau khi
đợt trăm hoa đua nở về tư tưởng của thời Xuân Thu Chiến Quốc chấm dứt,
với Khổng Giáo trở thành khuôn mẫu độc tôn. Chúng ta cũng quan sát rằng
tại Châu Âu, các nước anglo-saxon đã phát triển hơn hẳn, bắt kịp và vượt
qua các nước la-tinh từ thế kỷ 17 khi hai khối văn hóa này đi theo hai
trường phái triết khác nhau. Một bên, khối anglo-saxon, theo trường phái
thực nghiệm, chấp nhận và lấy thực tại của thế giới chung quanh làm
khởi điểm suy tư để nhận diện rõ ràng hơn và cải thiện cuộc sống; trong
khi khối văn hóa la-tinh, đi theo trường phái thuần lý, mê mải đào sâu
những lý luận siêu hình và trừu tượng rất ít liên hệ với thực tại. Chúng
ta có thể có những quan sát khác tại Ai Cập, Ấn Độ, v.v. với cùng liên
hệ nhân quả tương tự.
Chúng ta cũng có thể lý luận rằng triết là một cố gắng để vượt lên trên
và đào sâu những vấn đề trước mắt. Một dân tộc thiếu triết không thể
hiểu rõ các vấn đề của mình, do đó không nhìn thấy hướng đi và luôn luôn
thụ động, để cho thực tại xô đẩy. Không thể có tiến bộ trong trường hợp
này.
Nếu kết luận trên - triết rất cần cho xã hội - là đúng thì ta có thể
giải thích được số phận bi đát của nước ta. Chúng ta là một dân tộc
không có tư tưởng. Trong suốt dòng lịch sử, mà ta hơi cường điệu khi nói
là dài hơn bốn nghìn năm, ta không có được một triết gia, một nhà tư
tưởng và một tác phẩm nào có tầm vóc tư tưởng cả. Như thế làm sao ta có
thể nhận diện được những gì đã xảy ra, đang diễn ra và có thể sẽ tới?
Trước những biến cố quan trọng làm sao chúng ta tránh được bi kịch của
một con tàu không phương hướng giữa đêm đen và bão tố? Chúng ta cũng có
thể giết nhau nhân danh một sai lầm mà chúng ta tưởng là chân lý. Ông Hồ
Chí Minh, theo chính lời kể của ông, sau khi đọc được một tài liệu của
phong trào cộng sản đã sung sướng như người mê sảng và dành của cuộc đời
để thực hiện cho bằng được chủ nghĩa Mác-Lênin tại Việt Nam, bất chấp
mọi tổn thất xương máu, dù cho "sông có thể cạn, núi có thể mòn". Tố Hữu được "mặt trời chân lý chiếu qua tim" và kêu gọi "Giết, giết nữa ! Bàn tay không chút nghỉ".
Sự cuồng tín đã là hậu quả của tăm tối, và dẫn đến tội ác. Không nên
trách những người như Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Cũng có những người chống
cộng rất sắt máu. Nếu không có họ thì cũng sẽ có những người khác làm
những việc họ làm. Khi người ta không biết suy nghĩ thì tất cả đều có
thể xảy ra. Con tàu đụng vào mỏm đá và vỡ tan chỉ vì nó trôi dạt trong
cơn bão. Một dân tộc cần tư tưởng và các triết gia như một người cần ánh
sáng và đôi mắt.
Nhưng một cách cụ thể, triết đem lại cho ta những gì?
Điều
không quan trọng là những kết luận của các triết gia. Chúng ta có thể
tin hay không tin là có thượng đế; vật chất chế ngự tinh thần, hay ngược
lại; cuộc đời là bể khổ, một thoáng phù du, hay là một hạnh phúc, hay
một giai đoạn cho một cuộc sống vĩnh cửu sau này; kiến thức do học hỏi
hay chỉ do nhớ lại như Socrates nghĩ, v.v. Tất cả những kết luận đó chỉ
quan trọng, nếu quả nhiên chúng có tầm quan trọng, đối với một cá nhân,
chứ không quan trọng đối với một dân tộc hay một xã hội. Thật là mê muội
khi người ta xung đột với nhau về những kết luận đó. Điều thực sự quan
trọng mà triết mang lại là sự sáng tỏ về khái niệm và ngôn ngữ. Nói một
cách khác, triết giúp cho chúng ta biết chúng ta đang nói về cái gì.
Khi chúng ta đọc một cuốn sách triết, chúng ta có thể lưu ý là tác giả
dùng một phần rất lớn số trang và chữ để định nghĩa các từ ngữ và khái
niệm và chỉ dành một phần rất nhỏ để trình bày quan điểm của mính. Đôi
khi chính sự phát minh ra một khái niệm mới, hay những nghĩa mới cho
những từ quen thuộc, là đóng góp chính. Những người chỉ muốn tìm kết
luận không thể thưởng thức thú đọc sách triết và không thể nào hiểu được
kết luận, và nếu lại tưởng mình đã hiểu thì càng tệ hơn. Nói ngôn ngữ
và khái niệm nhưng thực ra chỉ có ngôn ngữ. Khái niệm cũng chỉ là ngôn
ngữ. Ngôn ngữ quan trọng đến nỗi nhiều trường phái triết mới coi triết
chỉ có mục đích làm sáng tỏ ngôn ngữ. Họ cũng có lý nếu ta nhận xét một
số trường hợp.
Thí dụ như khi một số người lên án lập trường "hòa giải và hòa hợp dân
tộc" là "hòa hợp hòa giải với cộng sản". Hãy khoan bàn vấn đề "hòa hợp
hòa giải với cộng sản" có phải là điều đáng và cần lên án hay không để
chỉ thảo luận về ngôn ngữ và khái niệm. Trong cụm từ "hòa giải và hòa
hợp dân tộc" có bốn khái niệm : hòa giải, hòa hợp, thứ tự trước sau giữa
hòa giải và hòa hợp, và dân tộc. Nó muốn đề nghị thực hiện hòa giải
dân tộc trước hết để sau đó thực hiện hòa hợp dân tộc. Hòa giải là gì,
hòa hợp là gì là những khái niệm mà Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên đã giải
thích trong dự án chính trị của nó. Trong cụm từ "hòa hợp hòa giải với
cộng sản" chỉ còn lại hai khái niệm, một là khái niệm "hòa hợp hòa giải"
không được định nghĩa nhưng có ngụ ý là xấu, hai là cộng sản, cũng
không được định nghĩa, là chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản hay là một
khối người? Cứ thử dịch cụm từ "hòa hợp hòa giải với cộng sản" sang
tiếng Pháp hay tiếng Anh, hay bất cứ một ngôn ngữ chích xác nào khác sẽ
thấy nó rất ngây ngô và khó dịch. Nó là một sản phẩm của cách nói tiếng
Việt bừa bãi.
Cũng có những người lên án lập trường này là "thỏa hiệp với cộng sản".
Có lẽ đây cũng là điều mà những người sử dụng cụm từ luộm thuộm "hòa hợp
hòa giải với cộng sản" muốn nói. Nhưng nếu vậy thì vẫn còn hai câu hỏi
khác. Tại sao "dân tộc" lại trở thành "cộng sản"? Và tại sao "hòa giải
và hòa hợp" lại đồng nghĩa với "thỏa hiệp"? Hòa giải, hòa hợp, và thỏa
hiệp là những khái niệm rất khác nhau. Mỹ và Nhật hòa giải sau thế chiến
II nhưng không hòa hợp. Còn thỏa hiệp thì hoàn toàn khác. Trong chiến
tranh hai bên lâm chiến có thể thỏa hiệp ngừng bắn trong vài giờ để thu
lượm thương binh rồi sau đó tiếp tục đánh nhau, nghĩa là thỏa hiệp mà
không hề hòa giải. Ngược lại, cũng có thể có hòa giải mà không có thỏa
hiệp, như khi bà xã sau khi xách chổi chà rượt chồng nhận ra là mình đã
ghen không đúng bèn ôm hôn anh chồng bị nghi oan để làm lành. Ngoài ra,
trong khẩu hiệu lên án "bọn chủ trương thỏa hiệp với cộng sản", thỏa
hiệp được hiểu ngầm là xấu. Nhưng tại sao thỏa hiệp lại xấu? Nếu đảng
cộng sản đề nghị với đối lập dân chủ một thỏa hiệp theo đó Việt Nam sẽ
có dân chủ thực sự trong một thời gian ngắn thì thỏa hiệp này có gì đáng
lên án?
Đây là một thí dụ về việc sử dụng ngôn ngữ và khái niệm một cách cẩu
thả và vô ý thức. Nhưng cũng có những trường hợp người ta cố tình dùng
từ ngữ một cách mơ hồ với dụng ý gian trá. Như trường hợp phiên tòa xử
Phạm Hồng Sơn về tội "gián điệp" trong tuần qua. Điều 80 khoản 1, điểm
c, bộ luật hình sự tố tụng qui định phạm tội gián điệp những ai "thu thập cung cấp tin tức, tài liệu khác nhằm mục đích để nước ngoài sử dụng chống nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
"Tài liệu khác" là gì? Thế nào là "thu thập cung cấp"? Chúng ta biết
thu thập là gì, chúng ta cũng biết cung cấp là gì, nhưng "thu thập cung
cấp" là một cụm từ lộn xộn vô nghĩa. Thu thập và cung cấp tin tức và tài
liệu là những việc mà bất cứ một người nào sống trong một xã hội không
bán khai cũng đều làm cả. "Nước ngoài" thì chúng ta đều hiểu là một quốc
gia khác với Việt Nam, nhưng trong trường hợp Phạm Hồng Sơn thì nước
ngoài là chính tôi, Nguyễn Gia Kiểng, một người Việt Nam đang sinh sống ở
Pháp chứ không phải là một quốc gia. Nếu tôi là "nước ngoài" thì các
ông đại sứ Việt Nam cũng đều là nước ngoài cả. Và thế nào là "chống nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam"? Và làm sao biết được là đương sự quả
nhiên có "nhằm mục đích"? Một câu luộm thuộm và tối nghĩa như vậy mà
cũng được đưa vào luật pháp để kết tội, bỏ tù, gây thảm kịch cho biết
bao nhiêu người vô tội!
Một thí dụ khác, điều 4 của hiến pháp của chế độ cộng sản nói : "Đảng Cộng Sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin, là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà nước".
Chữ "theo" có hai nghĩa, một là "đi theo", hai là "theo như". Với nghĩa
thứ nhất thì Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ là lực lượng lãnh đạo xã hội và
nhà nước nếu còn theo đuổi chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng hiện nay nó đã đi
theo chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường rồi. Với nghĩa thứ hai thì
điều 4 lại càng vô nghĩa tại Việt Nam. Có thể theo như chủ nghĩa
Mác-Lênin thì Đảng Cộng Sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội và nhà
nước (đây là một điều cần kiểm chứng vì tôi không thấy một tài liệu nào
của Marx và Lenin nói về vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam cả) nhưng
theo đa số người Việt Nam thì khác.
Chúng ta là một dân tộc có lịch sử sống chung rất dài nhưng lại không
có tư tưởng, sự kiện này có hậu quả trên ngôn ngữ. Một mặt chúng ta có
khá nhiều từ để chỉ cùng một điều cụ thể, thí dụ như để chỉ màu đen
chúng ta phân biệt con chó mực, con ngựa ô, con mèo mun, mái tóc huyền,
cái áo thâm, và dĩ nhiên mực đen. Mặt khác chúng ta lại rất thiếu những
từ trừu tượng cần dùng cho tư tưởng và triết học. Thảo luận ý kiến giữa
chúng ta tự nó đã rất khó khăn, nếu thêm vào đó chúng ta lại lợi dụng sự
thiếu chính xác của từ ngữ để xuyên tạc và ăn gian thì thảo luận chỉ là
cãi lộn, muốn có lý phải có súng.
Tại sao chúng ta cần triết?
Bởi vì triết chủ yếu là ngôn ngữ và khái niệm, và chúng ta cần một ngôn
ngữ chính xác và những khái niệm minh bạch để có thể hiểu nhau và làm
việc với nhau. Sự lẫn lộn khái niệm đưa đến những hiểu lầm lớn. Một thí
dụ là chúng ta thường phân biệt, đạo đức và chính trị. Chúng ta coi
những khái niệm này là mâu thuẫn với nhau, và rất nhiều người tuyên bố
một cách tự nhiên, và hãnh diện, là "không làm chính trị" với dụng ý để
người nghe hiểu rằng mình là người đạo đức và lương thiện. Đó là vì
chúng ta thiếu triết và do đó không hiểu bản chất của chính trị và đạo
đức.
Trong triết, đạo đức học là cố gắng để trả lời hai câu hỏi "thế nào là
một cuộc sống thực sự hạnh phúc?" và "phải sống thế nào để có hạnh
phúc?" trong khi chính trị học cố gắng để trả lời hai câu hỏi "thế nào
là một xã hội hạnh phúc?" và "làm thế nào để đem lại hạnh phúc tối đa
cho thật nhiều người?". Như thế không hề có mâu thuẫn, đạo đức và chính
trị nhắm cùng một mục đích trên những qui mô khác nhau. Đạo đức là chính
trị trong phạm vi cá nhân trong khi chính trị là đạo đức trên qui mô
quốc gia. Sự kiện có những người làm chính trị lưu manh không chứng tỏ
chính trị mâu thuẫn với đạo đức. Cũng không thiếu những tu sĩ bê bối,
nhưng có ai cho rằng tôn giáo mâu thuẫn với đạo đức? Và cũng không thiếu
những người không làm chính trị mà cũng rất thiếu đạo đức.
Một trí thức trong nước mà tôi ngưỡng mộ vì thiện chí, can đảm và kiến
thức, từ chối tham gia cuộc đấu tranh cho dân chủ không phải vì sợ mà vì
muốn dành trọn sự tận tụy cho tôn giáo. Lại một sự hiểu lầm. Tôn giáo
và chính trị còn liên hệ với nhau một cách mật thiết hơn cả giữa chính
trị và đạo đức. Các tôn giáo lớn đều xuất phát từ những dự án chính trị.
Trừ trường hợp của Hồi giáo, các dự án chính trị này đã không thành
công trong sinh thời của người sáng lập, nhưng vì sự đúng đắn của chúng
những tư tưởng chính của người sáng lập đã được thừa kế và tiếp tục được
thực hiện một cách khác. Nhưng đây là một cuộc thảo luận rất lớn, vượt
xa khuôn khổ của bài này.
Tại sao gần ba mươi năm dưới một chế độ mà hầu như mọi người đều đánh
giá là tham nhũng và bạo ngược chúng ta vi chưa có được một kết hợp dân
chủ có tầm vóc? Chắc chắn là vì chúng ta thiều văn hóa tổ chức, nghĩa là
thiếu một cách suy nghĩ và hành động khiến chúng ta thấy cần phải tham
gia một tổ chức, chấp nhận những hệ lụy của sinh hoạt tổ chức, biểu lộ
phản xạ tổ chức trong mọi ứng xử và không thể hình dung là có một việc
lớn nào có thể thực hiện mà không cần có tổ chức.
Nhưng cũng có một nguyên nhân khác là chúng ta thiếu triết, do đó ngôn
ngữ không chính xác và các khái niệm chỉ được hiểu một cách mơ hồ và lộn
xộn, thậm chí sai và nghịch nghĩa. Những người hoạt động chính trị vì
không thể hiểu nhau, đồng ý với nhau và hoạt động với nhau. Nhưng đồng
thời họ cũng làm cho quần chúng hoang mang, không biết thế nào là đúng,
là sai và không hưởng ứng một lời kêu gọi nào cả để khỏi bị sai lầm bởi
vì, như triết gia mà tôi đang đọc khẳng định, vấn đề đúng hay sai chỉ
đặt ra khi người ta chọn một lập trường, và không ai muốn sai lầm. Sự
hỗn loạn, phân tán và bất lực có nguyên nhân chính ngay trong đầu chúng
ta.
Cả hai cuốn sách triết mà anh bạn tặng tôi đều có cùng một mục đích là
cảnh cáo người đọc rằng không có gì là hoàn toàn chắc chắn trên trái đất
này. Tôi không có gì để phản bác. Tác giả viết hay quá. Nhưng tại sao
tôi vẫn tin chắc một điều là muốn đưa đất nước ra khỏi bế tắc chúng ta
cần một trật tự trí tuệ xây dựng trên một ngôn ngữ chính xác và những
khái niệm được hiểu rõ? Có lẽ vì tôi không có căn triết.
Nguyễn Gia Kiểng