Tự do ơi ! Ta gọi tên người (Nhiều tác giả)

Đối với người tự do, quốc gia là tập hợp những cá nhân tạo thành quốc gia ấy, không phải cái gì đấy bao trùm lên họ hay cao hơn họ. Người tự do tự hào về di sản chung và trung thành với những truyền thống chung. Nhưng người tự do xem chính quyền là phương tiện, công cụ, không phải người ban ân huệ và quà tặng, cũng không phải người chủ hay thần thánh để tôn thờ và phục vụ mù quáng.  


Can đảm chọn tự do

Ronald Reagan, Trần Quốc Việt dịch 

Lời người dịch : Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng sau ở trường đại học quốc gia Mạc Tư Khoa vào ngày 31 tháng Năm, 1988. Reagan nói chuyện với sinh viên, nhưng bài diễn văn cũng được truyền thanh trên cả nước Liên Xô. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ có thể nói chuyện trực tiếp với nhân dân Xô Viết.

Chúng tôi trích dịch bài diễn văn này với hy vọng rằng thông điệp về giá trị vĩnh cửu tạo ra xã hội cường thịnh và nhân văn-tức tự do của nó sẽ đến với những người Việt, đặc biệt những người trẻ tuổi như từng đến với những sinh viên Liên Xô cách đây 34 năm. (Tựa đề do người dịch đặt).

TQV

tudo4

Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan nói chuyện với Giáo sư và sinh viên Nga tại Đại học Moscow ngày 31/05/1988

---------------------------

Đứng ở đây trước bích họa cách mạng của các bạn, tôi muốn nói về cuộc cách mạng rất khác đang diễn ra ngay bây giờ, đang âm thầm tràn qua toàn cầu mà không có cảnh đổ máu hay xung đột. Cuộc cách mạng ấy tạo ra những kết quả ôn hòa, nhưng chúng sẽ thay đổi cơ bản thế giới chúng ta, phá tan những giả định cũ, và đổi mới cuộc sống chúng ta. Ta dễ dàng đánh giá thấp vì cách mạng này không đi kèm với biểu ngữ hay phô trương. Cuộc cách mạng này tên là cuộc cách mạng kỹ thuật hay thông tin, và ta có thể lấy con chip silicon, không lớn hơn dấu tay, làm biểu tượng cho cách mạng này.

Theo chương trình trao đổi giữa hai nước, chúng tôi hiện nay có cuộc triển lãm lưu động quanh nước các bạn để chứng tỏ kỹ thuật thông tin đang biến đổi cuộc sống chúng tôi - thay thế lao động chân tay bằng người máy, dự báo thời tiết cho nông dân, hay vẽ bản đồ mã di truyền DNA cho các nhà nghiên cứu y khoa. Ngày nay những máy vi tính này giúp thiết kế ra mọi thứ từ nhà cửa, xe cộ tới phi thuyền ; chúng còn thiết kế cả những máy tính tốt hơn và nhanh hơn. Chúng có thể dịch tiếng Anh sang tiếng Nga hay giúp người mù đọc hay giúp Michael Jackson tạo ra âm thanh của cả giàn nhạc trên một máy hợp âm (synthesizer). Khi được nối kết nhờ mạng lưới vệ tinh và cáp sợi quang học, với máy tính để bàn và điện thoại, một cá nhân có thể sử dụng những phương tiện mà chỉ cách đây vài năm ngay cả những chính quyền lớn nhất cũng không có sẵn.

Tựa như cánh bướm non trong kén, chúng tôi đang thoát thai từ nền kinh tế của cuộc cách mạng công nghiệp - nền kinh tế bị bó buộc và hạn chế trong tài nguyên vật thể của trái đất - chuyển sang, như một nhà kinh tế đã đặt tựa đề cho sách ông, nền "Kinh tế ở Trí tuệ", mà ở đấy trí tưởng tượng của con người không có giới hạn và tự do sáng tạo là tài nguyên quý giá nhất. Hãy nghĩ về con chip nhỏ bé ấy. Giá trị của nó không ở những hạt cát từ đấy nó được tạo ra mà ở cấu trúc cực kỳ nhỏ được thiết kế trên nó bởi trí tuệ thông minh của con người. Hay lấy ví dụ về vệ tinh đang truyền diễn văn này ra khắp thế giới, mà thay thế hàng ngàn tấn đồng được khai thác từ trái đất và được đúc thành dây. Trong nền kinh tế mới này, phát minh của con người khiến tài nguyên vật thể càng ngày càng lỗi thời. Chúng tôi đang vượt qua hoàn cảnh tồn tại vật chất để đến thế giới nơi con người tạo ra số phận của chính mình. Ngay cả khi chúng tôi thám hiểm chân trời khoa học tiên tiến nhất, chúng tôi cũng trở về với niềm tin văn hóa lâu đời của chúng tôi, niềm tin ở trong sách Sáng Thế Ký trong Kinh Thánh : khởi đầu là tinh thần, và sự sáng tạo ra của cải vật chất phong phú khởi đi từ chính tinh thần này.

Nhưng số phận không định trước sự tiến bộ. Yếu tố quan trọng nhất là tự do - tự do tư tưởng, tự do thông tin, tự do truyền đạt. Nhà khoa học nổi tiếng, học giả, và người sáng lập đại học này, Mikhail Lomonosov, biết điều ấy. Ông nói "Mọi người đều biết khoa học đạt được những thành tựu lớn lao và nhanh chóng, đặc biệt một khi ách nô lệ được vất bỏ và thay thế bằng tự do triết học". Các bạn biết, một trong những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa nước các bạn và nước tôi diễn ra giữa các nhà thám hiểm người Nga và người Mỹ. Những người Mỹ này là thành viên tham gia chuyến hải hành cuối cùng của Cook trong cuộc thám hiểm tìm con đường qua Bắc cực ; trên đảo Unalaska, họ tình cờ gặp những người Nga, những người này cho họ tá túc, và cùng với họ và những người dân bản địa tổ chức lễ cầu nguyện trên băng.

Những nhà thám hiểm của kỷ nguyên hiện đại là những doanh nhân, những người có tầm nhìn, có can đảm chấp nhận rủi ro và có đủ tự tin để đương đầu với những điều họ không biết. Những doanh nhân này và những doanh nghiệp nhỏ của họ quyết định hầu như tất cả sự phát triển kinh tế ở Hoa Kỳ. Họ là những người đóng vai trò chính cho cuộc cách mạng kỹ thuật. Thật vậy, một trong những công ty máy tính cá nhân lớn nhất ở Hoa Kỳ được hai sinh viên đại học, cũng bằng tuổi các bạn, khởi nghiệp trong ga-ra sau nhà họ. Một số người, ngay cả ở nước tôi, nhìn cuộc thử nghiệm muôn màu muôn vẻ là thị trường tự do ấy mà chỉ thấy phí phạm. Thế còn tất cả những doanh nhân thất bại thì sao ? Đúng, nhiều người thất bại, đặc biệt những người thành đạt thường thất bại vài lần. Nhưng nếu bạn hỏi họ bí quyết thành công, họ sẽ bảo bạn họ chỉ học từ bao gian nan họ trải qua trên trường đời ; đúng vậy, họ học từ chính thất bại. Như vận động viên thi đấu hay học giả theo đuổi sự thật, thực tiễn là người thầy vĩ đại nhất.

Vì lẽ ấy những nhà kế hoạch chính quyền, dù tinh tế đến đâu, cũng rất khó mà thay thế cho hàng triệu cá nhân làm việc suốt ngày đêm để biến giấc mơ của họ thành sự thật. Thực ra tệ quan liêu là vấn đề trên toàn thế giới. Có câu chuyện cũ về thành phố nọ - thành phố ấy có thể ở bất kỳ nơi đâu - có một ông quan liêu mà ai cũng biết là kẻ vô tích sự, nhưng không hiểu sao ông ta cứ bám chặc vào quyền lực rất lâu. Thế rồi ngày nọ, trong cuộc họp thành phố, một bà già đứng lên nói với ông ta : "Ở nơi đây quê tôi có câu chuyện dân gian là khi một đứa bé sinh ra đời, một thiên thần bay từ trên trời xuống và hôn lên một bộ phận thân thể của nó. Nếu thiên thần hôn tay nó, nó trở thành người khéo tay. Nếu thiên thần hôn trán nó, nó trở thành thông minh và tài giỏi. Nhưng tôi nghĩ hoài không hiểu thiên thần hôn ông ở đâu mà ông ngồi lì ở đấy rất lâu mà chẳng làm được tích sự gì".

Chúng ta đang nhìn thấy sức mạnh kinh tế lan tỏa ra khắp thế giới. Những nơi như Cộng hòa Đại Hàn, Singapore, Đài Loan đã phóng vào thời đại kỹ thuật, và trong quá trình phát triển ấy họ hầu như không dừng lại ở thời kỳ công nghiệp. Chính sách nông nghiệp thuế thấp ở tiểu lục địa nghĩa là chỉ trong vòng vài năm Ấn độ hiện là nước xuất siêu thực phẩm. Có lẽ thích thú nhất là những ngọn gió đổi thay bây giờ đang thổi qua khắp nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, nơi một phần tư dân số thế giới lần đầu được hưởng tự do kinh tế. Đồng thời, sự phát triển dân chủ đã trở thành một trong những phong trào chính trị mạnh mẽ nhất trong thời đại chúng ta. Tại Châu Mỹ La tinh vào thập niên 1970, chỉ một phần ba dân số sống dưới chính quyền dân chủ ; ngày nay hơn 90 phần trăm dân số sống dưới chính quyền dân chủ. Ở Philippines, ở Cộng hòa Đại Hàn, những cuộc bầu cử tự do, có tranh cử, dân chủ là chuyện rất bình thường. Trên khắp thế giới, thị trường tự do là khuôn mẫu của sự phát triển. Dân chủ là tiêu chuẩn để đánh giá các chính quyền.

Người Mỹ chúng tôi công khai niềm tin của chúng tôi ở tự do. Quả thật, tự do gần như là thú tiêu khiển quốc gia. Cứ bốn năm một lần nhân dân Mỹ chọn vị tổng thống mới, và năm 1988 rơi vào dịp này. Có lúc có 13 ứng cử viên chính ra tranh cử ở hai đảng chính, chưa kể đến tất cả những ứng cử viên khác, bao gồm những ứng cử viên thuộc các đảng Xã hội và Tự do - tất cả đều cố gắng lấy việc làm của tôi. Khoảng độ 1.000 đài truyền hình địa phương, 8.500 đài phát thanh, và 1.700 nhật báo- mỗi một doanh nghiệp này đều độc lập và tư nhân, hoàn toàn không phụ thuộc vào chính quyền-tường thuật về các ứng cử viên, tra hỏi họ trong các cuộc phỏng vấn, cho họ gặp nhau để tranh luận. Cuối cùng, nhân dân bỏ phiếu ; họ quyết định ai sẽ là tổng thống kế tiếp. Nhưng tự do không bắt đầu hay kết thúc bằng các cuộc bầu cử.

Chỉ cần lấy ví dụ, hãy đi đến bất kỳ thành phố Mỹ nào, và bạn sẽ thấy hàng chục nhà thờ, tiêu biểu cho nhiều tín ngưỡng khác nhau - ở nhiều nơi, như nhà thờ đạo Do Thái, nhà thờ Hồi Giáo - và bạn sẽ thấy những gia đình thuộc đủ mọi dân tộc cùng nhau thờ phụng. Hãy đi vào bất kỳ lớp học nào, và ở đấy bạn sẽ thấy trẻ em được dạy về Bản Tuyên ngôn Độc lập, rằng người ta được Đấng Tạo hóa phú cho những quyền bất khả xâm phạm nào đấy - trong số những quyền này có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc - mà không một chính quyền nào có thể phủ nhận một cách chính đáng ; Hiến pháp bảo đảm cho họ quyền tự do do ngôn luận, tự do hội họp. Hãy đi vào bất kỳ tòa án nào, và ở đấy sẽ có vị chánh án độc lập làm chủ tọa phiên tòa, và không chịu trách nhiệm với quyền lực chính quyền. Ở đấy mỗi bị cáo đều có quyền được xử bởi bồi thẩm đoàn thuộc nhiều thành phần khác nhau, thông thường 12 người nam và nữ - những công dân bình thường ; họ là những người, những người duy nhất cân nhắc bằng chứng rồi quyết định có tội hay vô tội. Trong tòa án ấy, bị cáo vô tội cho tới khi bị chứng minh có tội, và lời của cảnh sát hay bất kỳ viên chức nào cũng không có giá trị pháp lý hơn lời của bị cáo. Hãy đi đến bất kỳ khuôn viên trường đại học nào, và ở đấy bạn sẽ thấy những cuộc tranh luận công khai, đôi lúc sôi nổi về những vấn đề trong xã hội Mỹ và có thể cần phải làm gì để giải quyết chúng. Hãy mở truyền hình lên, và bạn sẽ thấy cơ quan lập pháp tiến hành công việc của chính quyền ngay trước máy quay phim, tranh luận và bỏ phiếu về luật mà sẽ trở thành luật của quốc gia. Hãy tuần hành trong bất kỳ cuộc biểu tình nào, và có nhiều cuộc biểu tình ; quyền hội họp của nhân dân được Hiến pháp bảo đảm và được cảnh sát bảo vệ. Hãy đi vào bất kỳ hội trường công đoàn nào, nơi các công đoàn viên biết quyền đình công của họ được luật pháp bảo vệ. Thực ra, một trong nhiều việc làm tôi có trước khi làm tổng thống là chủ tịch công đoàn, Screen Actors Guild. Tôi lãnh đạo công đoàn mình đình công, và tôi tự hào nói rằng chúng tôi đã thắng lợi.

Nhưng tự do còn hơn điều này. Tự do là quyền chất vấn và thay đổi lề lối làm việc từ xưa đến nay. Tự do là cuộc cách mạng liên tục của thị trường. Tự do là sự hiểu biết cho phép chúng ta nhận ra những khuyết điểm và tìm cách giải quyết. Tự do là quyền đưa ra ý tưởng, dù bị các chuyên gia chế giễu, nhưng nhìn thấy đông đảo mọi người rất say mê ý tưởng ấy. Tự do là quyền mơ mộng - quyền theo đuổi giấc mơ của mình hay trung thành với lương tâm mình, cho dù ta chỉ là người duy nhất trong biển người hoài nghi. Tự do là sự thừa nhận rằng không một ai, không một quyền lực hay chính quyền nào có độc quyền về sự thật, ngoại trừ sự thật rằng cuộc đời của mỗi cá nhân là vô cùng quý giá, rằng mỗi người trong tất cả chúng ta sinh ra đời đều đã được sinh ra đời với mục đích nào đấy cho nên đều có điều gì đấy để cống hiến cho đời.

Người ta nói tự do khiến con người ích kỷ và coi trọng vật chất, nhưng người Mỹ là một trong những người mộ đạo nhất trên địa cầu. Vì họ biết tự do, giống y như chính sự sống, không phải do tự kiếm được mà là mòn quà từ Chúa, cho nên họ tìm cách chia xẻ món quà ấy với thế giới. Trong bài diễn văn từ biệt, George Washington nói "Cả lý trí lẫn kinh nghiệm đều ngăn chúng ta không nên kỳ vọng đạo đức quốc gia có thể ngự trị khắp nơi mà không có nguyên tắc tôn giáo. Và thật quả rất đúng rằng đức tính hay đạo đức là suối nguồn cần thiết của chính quyền hợp lòng dân". Dân chủ không hẳn là hệ thống chính quyền mà đúng ra là hệ thống nhằm buộc chính quyền phải khép vào khuôn khổ và không được can thiệp vào đời riêng ; một hệ thống của những sự ràng buộc về quyền lực để khiến chính quyền lệ thuộc vào những điều quan trọng trong cuộc đời, những nguồn gốc giá trị thật sự ta chỉ thấy ở trong gia đình và đức tin.

Nhưng tôi hy vọng các bạn biết tôi nói rất nhiều về những điều này không chỉ để ca ngợi những ưu điểm của nước tôi mà còn nói về tâm hồn cao cả chân chính của nước các bạn. Dù sao, ai cần nói về nỗ lực đi tìm sự thật ở đất nước của Dostoyevski, về óc tưởng tượng ở quê hương của Kandinski và Scriabin, về vẻ đẹp và tâm hồn ở nền văn hóa phong phú và cao quý của nhà văn người Uzbek Alisher Navoi ? Tất cả mọi người đều cảm nhận một cách say mê nồng ấm nền văn hóa lớn của quốc gia đa dạng của các bạn. Cho phép tôi trích một trong những đoạn văn đương thời hùng hồn nhất, từ một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi, Boris Pasternak, trong tiểu thuyết "Bác sĩ Zhivago". Ông viết : "Tôi nghĩ nếu con thú ngủ ở trong lòng con người có thể bị đè nén bởi những đe dọa - bất kỳ đe dọa nào, hoặc đe dọa về tù tội hay đe dọa về sự trừng phạt sau khi chết - thì biểu tượng cao nhất của con người sẽ là người dạy sư tử trong rạp xiếc với con roi trên tay, chứ không phải đấng tiên tri hy sinh thân mình. Nhưng đây chính là điều quan trọng nhất - điều mà trong suốt bao thế kỷ đã nâng con người lên trên con thú không phải là dùi cui, mà là âm nhạc trong lòng - sức mạnh không thể nào cưỡng lại được của sự thật trần trụi".

Sức mạnh không thể nào cưỡng lại được của sự thật trần trụi. Ngày nay thế giới hướng bao hy vọng và mong chờ của mình vào những dấu hiệu thay đổi, vào những bước tiến đến tự do lớn hơn ở Liên Xô. Chúng tôi theo dõi và chúng tôi hy vọng khi chúng tôi thấy những thay đổi tích cực diễn ra. Tôi biết có nhiều người trong xã hội các bạn sợ rằng thay đổi ấy chỉ mang lại sự đổ vỡ và gián đoạn, sợ hân hoan đón nhận hy vọng của tương lai - mà đôi lúc ta phải cần tin tưởng. Thật giống như cảnh trong phim cao bồi "Butch Cassidy and the Sundance Kid", mà một số người ở Mạc Tư Khoa ở đây vừa qua có dịp xem. Toán người truy lùng bao vây hai kẻ tội phạm, Butsch và Sundance, người mà thấy mình bị vây hãm trên bờ vực vách núi dựng đứng cao hàng chục mét bên trên thác nước chảy xiết. Butch quay sang Sundance nói hy vọng duy nhất của hai người là nhảy xuống sông ở bên dưới, nhưng Sundance không chịu. Y nói y sẽ chiến đấu đến cùng với bọn họ, mặc dù bên họ rất đông. Butch nói làm như thế chẳng khác gì tự sát và hối y nhảy mau, nhưng Sundance vẫn không chịu rồi cuối cùng thú nhận, "Tao không biết bơi". Butch phá ra cười và nói, "Mày thật là vừa ngốc lại vừa khùng, biết đâu chưa rơi xuống nước thì đã chết mất rồi". À, nếu các bạn chưa xem qua, thì rồi cuối cùng Butch và Sundance đều thoát được. Tôi nghĩ điều tôi vừa nói về là perestroika và về những mục tiêu của nó là gì.

Nhưng thay đổi nhất định không có nghĩa là phủ nhận quá khứ. Giống như cây mạnh lên theo mùa, đâm rễ vào lòng đất và hút nhựa sống từ mặt trời, những thay đổi tích cực cũng như thế phải đâm rễ vào những giá trị truyền thống - vào lòng đất nước, vào văn hóa, vào gia đình và cộng đồng - và thay đổi phải nhận sức sống của nó từ những điều bất tử, từ nguồn gốc của tất cả sự sống, tức đức tin. Thay đổi như thế sẽ đưa đến những hiểu biết mới, đến những cơ hội mới, đến tương lai rộng mở hơn mà ở đấy truyền thống không bị thay thế mà còn phát huy rực rỡ trọn vẹn. Tương lai ấy là tương lai đang mời gọi thế hệ các bạn.

Đồng thời, chúng ta nên nhớ cải cách mà không được thể chế hóa nhất định sẽ không bao giờ chắc chắn. Tự do như thế sẽ khiến ta luôn luôn lo sợ. Con chim bị buộc vào dây, dù dây dài bao nhiêu chăng nữa, lúc nào cũng có thể bị kéo giật lại. Vì thế, trong dịp trò chuyện với Tổng Bí thư Gorbachev, tôi đã nói về tầm quan trọng phải thế chế hóa thay đổi - nhằm bảo đảm cho cải cách. Và chúng tôi thường nói với nhau về sự gợi nhớ đáng buồn về thế giới bị chia cắt : Bức tường Berlin. Đã đến lúc phải xóa bỏ những rào cản chia lìa con người.

Tôi thường nói : Các quốc gia không tin tưởng nhau vì họ vũ trang ; họ vũ trang vì họ không tin tưởng nhau. Nếu địa cầu này muốn sống trong hòa bình và thịnh vượng, nếu địa cầu này muốn đón nhận tất cả những tiềm năng của cuộc cách mạng kỹ thuật, thì các quốc gia phải từ bỏ dứt khoát quyền chính sách đối ngoại bành trướng. Hòa bình giữa các quốc gia phải là mục tiêu trường cửu, chứ không phải là giai đoạn chiến thuật trong cuộc xung đột triền miên.

Người ta bảo tôi ở nước các bạn có một bản nhạc nổi tiếng - chắc có lẽ các bạn biết bản nhạc này mà điệp khúc truyền cảm của nó hỏi câu hỏi, "Người Nga có muốn chiến tranh không ?" Lời nhạc đáp : "Xin hãy hỏi bầu trời vương vấn tĩnh lặng, bên trên hàng phong và bạch dương ; dưới những hàng cây này bao người lính nằm an nghỉ. Xin hãy hỏi mẹ tôi, hãy hỏi vợ tôi ; rồi bạn sẽ không còn phải hỏi, "Người Nga có muốn chiến tranh không ?"" Nhưng còn những đồng minh một thời của các bạn thì sao ? Còn những người ôm bạn bên bờ sông Elbe thì sao ? Chúng ta hãy thử hỏi những nấm mồ nước dưới Thái Bình Dương hay thử hỏi những chiến trường Châu Âu nơi xa quê hương nghìn trùng bao người lính Mỹ đã ngã xuống và vùi thân ? Chúng ta hãy thử hỏi mẹ, chị em, và con họ, người Mỹ có muốn chiến tranh không ? Cũng hỏi chúng tôi, và bạn sẽ thấy cùng câu trả lời, cùng niềm khao khát trong mọi trái tim. Nhân dân không gây ra chiến tranh ; chính quyền gây ra chiến tranh. Và không có người mẹ nào lại muốn hy sinh con mình cho sự chiếm đoạt lãnh thổ, cho lợi ích kinh tế, cho ý thức hệ. Một dân tộc tự do chọn sẽ luôn luôn chọn hòa bình.

Người Mỹ luôn luôn tìm cách kết bạn với những cựu thù. Sau cách mạng thuộc địa với người Anh, chúng tôi đã củng cố từ rất lâu mối quan hệ mật thiết giữa hai quốc gia. Sau cuộc nội chiến ghê gớm giữa miền Bắc và miền Nam, chúng tôi hàn gắn lại vết thương và đạt được sự đoàn kết quốc gia đích thực. Trong đời tôi chúng tôi đã tham chiến hai cuộc thế chiến chống Đức và một thế chiến chống Nhật, nhưng hiện nay Cộng hòa Liên bang Đức và Nhật là hai đồng minh và hai người bạn gần gũi nhất của chúng tôi.

Thế hệ các bạn đang sống trong một trong những thời đại phấn khích nhất và hy vọng nhất trong lịch sử Xô viết. Đây chính là thời đại khi làn gió tự do đầu tiên lay động bầu trời và tim người đập theo nhịp điệu dồn dập của hy vọng, khi năng lực tinh thần tích tụ qua bao năm dài im lặng khao khát được bứt phá. Tôi được nhắc đến đoạn văn nổi tiếng gần cuối tác phẩm "Những linh hồn chết" của Gogol. So sánh quốc gia ông với cỗ xe tam mã đang chạy nhanh, Gogol tự hỏi không biết đích đến là nơi nào. Nhưng ông viết, "Không có câu trả lời chỉ ngoại trừ chiếc chuông tuôn tràn ra không ngừng những âm thanh kỳ diệu".

Chúng ta không biết nơi đến cuối cùng của cuộc hành trình này sẽ là đâu, nhưng chúng ta tràn đầy hy vọng rằng hứa hẹn của cải cách sẽ thực hiện được. Tại Mạc Tư Khoa vào mùa xuân này, vào tháng Năm 1988 này, chúng ta có thể được ban cho hy vọng ấy : tự do ấy, giống như cây con xanh tươi được trồng trên mộ của Tolstoy, cuối cùng sẽ nở hoa trên miền đất dân tộc và văn hóa phì nhiêu của các bạn. Chúng ta có thể được phép hy vọng rằng âm thanh tuyệt diệu của sự công khai mới sẽ tiếp tục trỗi cao lên và ngân vang xa hơn trên suốt con đường đưa ta đến thế giới hòa giải, tình thân, và hòa bình mới.

Ronald Reagan

Nguyên tác : May 31, 1988 : Address at Moscow State UniversityMiller Center, Mai 31, 1988

Trần Quốc Việt dịch

 

***********************

Tinh thần tự do

Learned Hand, Trần Quốc Việt dịch

Lời người dịch : Chánh án Learned Hand đọc bài diễn văn này vào ngày 21/05/1944 tại Central Park, New York, trong buổi lễ "Ngày tôi là người Mỹ". Hàng ngàn người tham dự trong đó có rất nhiều người là công dân mới.

tudo1

Chánh án Learned Hand (giữa) sau khi đọc bài diễn văn ngày 21/05/1944 ở Central Park, New York, nhân dịp buổi lễ "Ngày Tôi Là Người Mỹ"

Chúng ta tập trung ở đây để khẳng định lòng tin, lòng tin vào mục đích chung, xác tín chung, tình yêu chung. Nhiều người trong chúng ta đã chọn Mỹ làm đất dung thân ; những người còn lại là con cháu những người đã chọn như thế. Vì lý do này chúng ta có quyền nào đấy coi mình là nhóm tuyển chọn, nhóm người đã có can đảm đoạn tuyệt với quá khứ và dũng cảm đương đầu với bao hiểm nguy và cô đơn trên đất lạ quê người. Mục đích nào đã ban cho chúng ta, hay cho những người đi trước chúng ta, sức mạnh cho sự chọn lựa này ? Chúng ta đã tìm tự do ; tự do khỏi áp bức, tự do khỏi nghèo khổ, tự do để được là chính mình. Ngày xưa chúng ta đi tìm tự do ; bây giờ chúng ta tin rằng chính nhờ tự do chúng ta đang chiến thắng.

Chúng ta muốn nói gì khi chúng ta nói rằng trước tiên chúng ta tìm tự do ? Tôi thường tự hỏi phải chăng chúng ta không đặt rất nhiều hy vọng vào hiến pháp, vào luật pháp, và vào tòa án. Những hy vọng như thế là hão huyền ; hãy tin tôi, những hy vọng như thế là hão huyền. Tự do sống trong lòng người ; khi tự do chết trong lòng người thì không có hiến pháp nào, luật pháp nào, tòa án nào có thể cứu tự do ; không có hiến pháp nào, không có luật pháp nào, không có tòa án nào làm được gì nhiều để giúp cho tự do. Khi tự do sống trong lòng người, tự do không cần hiến pháp, luật pháp, tòa án để cứu mình.

Vậy tự do sống trong lòng người này là tự do gì ? Tự do ấy không phải là ý muốn tàn bạo, ý muốn không bị kiềm chế ; tự do ấy không phải là tự do muốn làm gì thì làm. Tự do như thế là phủ nhận tự do, và đưa thẳng đến phá đổ tự do. Xã hội mà ở đấy con người không thừa nhận sự hạn chế về tự do của mình chẳng mấy chốc trở thành xã hội nơi tự do chỉ là sở hữu của thiểu số tàn ác ; như chúng ta đã đau đớn biết đến.

Vậy thì tinh thần tự do là gì ? Tôi không thể nào định nghĩa tinh thần tự do ; tôi chỉ có thể nói với các bạn lòng tin của tôi. Tinh thần tự do là tinh thần mà không chắc chắn rằng nó đúng ; tinh thần tự do là tinh thần tìm cách hiểu được tâm hồn con người ; tinh thần tự do là tinh thần cân nhắc mà không có thành kiến quyền lợi của người cùng với quyền lợi của mình ; tinh thần tự do nhớ rằng cho dù một cánh én rơi xuống đất ta cũng không nên thờ ơ ; tinh thần tự do là tinh thần của Người gần cách đây hai ngàn năm dạy nhân loại bài học mà nhân loại không bao giờ học, nhưng cũng không bao giờ quên hẳn ; rằng có thể có vương quốc nơi người thấp hèn nhất cũng sẽ được lắng nghe và kính trọng bên cạnh người cao sang nhất.

Và bây giờ theo tinh thần ấy, tinh thần của một nước Mỹ mà chưa từng bao giờ tồn tại, và có thể không bao giờ tồn tại ; hay nói cho đúng hơn sẽ không bao giờ tồn tại ngoại trừ khi lương tâm và can đảm của người Mỹ tạo ra tinh thần tự do ấy ; tuy nhiên trong tinh thần của nước Mỹ ấy mà tồn tại ẩn kín dưới hình thức nào đấy trong nguyện vọng của tất cả chúng ta ; trong tinh thần của nước Mỹ ấy mà vào lúc này bao người trai trẻ của chúng ta đang chiến đấu và đang chết ; trong tinh thần tự do và trong tinh thần nước Mỹ tôi yêu cầu các bạn cùng đứng lên với tôi thề trung thành với số phận vinh quang của đất nước yêu quý của chúng ta.

Learned Hand

Nguyên tác : "The Spirit of Liberty", The Freeman, tháng 7/1966, tr. 18-19

Trần Quốc Việt dịch

(22/02/2022)

**********************

Tự do và quốc gia

Milton Friedman, Trần Quốc Việt dịch 

Trong đoạn được trích dẫn nhiều trong bài diễn văn nhậm chức, Tổng thống Kennedy nói, "Hãy đừng hỏi quốc gia có thể làm gì cho ta, hãy hỏi ta có thể làm gì cho quốc gia". Cả hai vế của câu tuyên bố này đều không diễn tả mối quan hệ giữa công dân và chính quyền mà xứng đáng với những lý tưởng của người tự do trong xã hội tự do. "Quốc gia có thể làm gì cho ta" có tính gia trưởng ấy ám chỉ chính quyền là cha, công dân là con, một quan điểm không hợp với niềm tin của người tự do về trách nhiệm của chính mình đối với số phận của chính mình. "Ta có thể làm gì cho quốc gia" có tính lệ thuộc ấy ám chỉ chính quyền là chủ hay thần thánh, công dân là đầy tớ hay tín đồ nhiệt tâm.

tudo2

Đối với người tự do, quốc gia là tập hợp những cá nhân tạo thành quốc gia ấy, không phải cái gì đấy bao trùm lên họ hay cao hơn họ. Người tự do tự hào về di sản chung và trung thành với những truyền thống chung. Nhưng người tự do xem chính quyền là phương tiện, công cụ, không phải người ban ân huệ và quà tặng, cũng không phải người chủ hay thần thánh để tôn thờ và phục vụ mù quáng. Người tự do không thừa nhận mục tiêu quốc gia nào ngoại trừ mục tiêu ấy là sự đồng ý chung về những mục tiêu mà các công dân phục vụ riêng. Người tự do không thừa nhận mục đích quốc gia nào ngoại trừ mục đích ấy là sự đồng ý chung về những mục đích mà các công dân mưu cầu riêng. 

Người tự do sẽ không hỏi quốc gia có thể làm gì cho mình và cũng sẽ không hỏi mình có thể làm gì cho quốc gia. Đúng ra người tự do sẽ hỏi "Tôi và đồng bào tôi có thể làm gì qua chính quyền" để giúp chúng tôi làm tròn trách nhiệm cá nhân của chúng tôi, để đạt được những thành tựu và mục đích riêng của chúng tôi, và quan trọng nhất, để bảo vệ tự do của chúng tôi ? Và người tự do sẽ hỏi kèm câu hỏi này với câu hỏi khác : Làm thế nào chúng tôi có thể ngăn cản chính quyền do chúng tôi tạo ra trở thành một ác quỷ mà sẽ hủy diệt chính tự do mà chúng tôi lập ra chính quyền để bảo vệ ?

Tự do là một loại cây hiếm và mỏng manh. Trí tuệ chúng ta mách với chúng ta, và lịch sử xác nhận, rằng mối đe dọa rất lớn đối với tự do là sự tập trung quyền lực. Chính quyền cần thiết để gìn giữ tự do của chúng ta, chính quyền là công cụ qua đó chúng ta có thể thực thi tự do của chúng ta ; tuy nhiên khi quyền lực tập trung vào những nhà chính trị, quyền lực ấy cũng là mối đe dọa đối với tự do. Cho dù những người nắm quyền lực này ban đầu có thiện ý và cho dù họ không bị quyền lực họ thực thi làm cho họ thối nát, quyền lực ấy nhất định sẽ hấp dẫn họ và khiến họ trở thành những người khác hẳn. 

Sự gìn giữ tự do là lý do bảo vệ nhằm hạn chế và phi tập trung quyền lực của chính quyền. Nhưng cũng có lý do hữu ích. Những tiến bộ lớn lao của nền văn minh, dù trong kiến trúc hay hội họa, trong khoa học hay văn chương, trong công nghiệp hay nông nghiệp, đều chưa bao giờ xuất phát từ chính quyền được quy về trung ương. Columbus đã không bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường mới đến Trung Quốc theo chỉ thị đa số của nghị viện, tuy ông được chính thể quân chủ chuyên chế tài trợ một phần. Newton và Leibnitz ; Einstein và Bohr ; Shakespeare, Milton và Pasternak ; Whitney, McCormick, Edison và Ford ; Jane Addams, Florence Nightingale, và Albert Schweitzer ; không có ai trong những người này đã mở ra những chân trời mới trong kiến thức và hiểu biết của con người, trong văn chương, trong những tiềm năng kỹ thuật, hay trong nỗ lực làm giảm đi sự khổ đau của con người theo những chỉ thị của chính quyền. Thành tựu của họ là sản phẩm của thiên tài cá nhân, của quan điểm thiểu số kiên định, của bầu không khí xã hội cho phép sự muôn màu muôn vẻ. 

Milton Friedman 

Nguyên tác : Lời tựa của tác phẩm "Chủ nghĩa tư bản và Tự do" (1962) của Milton Friedman. Tựa đề của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

Milton Friedman là nhà kinh tế Mỹ nổi tiếng. Ông được trao tặng giải Nobel kinh tế năm 1976. 

 

*********************

Tự do và yêu nước 

Trần Quốc Việt 

Ở nước dân chủ, yêu nước là bảo vệ và duy trì tự do. Ở nước toàn trị, yêu nước là kéo dài thực trạng, hay đúng hơn, mở rộng và nhân mãi ra kiếp đời nô lệ khốn khổ qua nhiều thế hệ. 

tudo3

Lòng yêu nước của họ phải phụ thuộc vào ý muốn của người chủ. Yêu nước của người nô lệ khác với yêu nước của người tự do.

Người nô lệ không thể nào yêu nước thực sự vì họ không có tự do. Lòng yêu nước của họ phải phụ thuộc vào ý muốn của người chủ. Khi cần, người chủ thổi kèn để dẫn dụ cho lòng yêu nước của người nô lệ trỗi dậy, khi không cần, người chủ treo con roi lơ lửng trên đầu nô lệ nhằm đè nén lòng yêu nước của họ xuống. 

Còn người tự do yêu nước vì muốn bảo vệ nền tự do họ đang hưởng. Nếu người tự do không yêu nước thì sau khi mất nước họ sẽ trở thành nô lệ. Vì lẽ đó người tự do phải yêu nước bằng sinh mạng của mình để duy trì tự do cho mình, con cháu và các thế hệ tương lai. 

Nhà văn Nga Lev Tolstoy viết như sau về lòng yêu nước : 

"Trong ý nghĩa đơn giản nhất, rõ ràng nhất, và hiển nhiên nhất lòng yêu nước đối với kẻ cai trị chỉ là phương tiện để đạt được các tham vọng và những thèm muốn khát khao của họ, còn đối với kẻ bị trị là sự từ bỏ nhân phẩm, lý trí, và lương tâm, cùng với sự tôn thờ mù quáng những kẻ cầm quyền". Từ đấy, ông kết luận "yêu nước là nô lệ". 

Người tự do chết mãn nguyện và chấp nhận cho cái giá phải trả cho lòng yêu nước vì họ biết con cháu họ có thể sống trong tự do như họ, nhưng người nô lệ chết tức tưởi và khốn khổ cho cái giá phải trả cho lòng yêu nước của người chủ mà sẽ tiếp tục cai trị con cháu họ. 

Khi xiềng xích nô lệ rớt xuống lòng yêu nước đích thực mới bắt đầu hồi sinh.

Trần Quốc Việt

(22/02/2022)

**********************

Tự do đã chết 

Jerzy Kosinski, Trần Quốc Việt dịch 

Trong khi lắng nghe tất cả những lời này, tôi chợt nhớ lại con thỏ rừng mà Makar có lần bẫy được. Con thỏ ấy to và đẹp. Ở nó ta thấy toát lên niềm khao khát tự do, phóng nhanh, lăn lộn vui thú, và băng mình thoát thân. Sau khi bị nhốt trong chuồng nó lồng lộn, dậm chân, húc đầu vào tường. Sau vài ngày, tức mình vì thấy nó bất kham, Makar ném tấm vải dầu nặng nề trùm lên nó. Con thỏ rừng vùng vẫy chống chọi mãnh liệt dưới tấm vải dầu, nhưng cuối cùng đành chịu thua. Rốt cuộc nó trở nên thuần và chịu ăn từ tay tôi.

tudo5

Giờ đây nó mang cái chuồng ở trong lòng, cái chuồng ấy đã trói buộc trí não và tâm hồn và làm tê liệt các cơ bắp nó.

Ngày nọ Makar say khướt nên quên đóng cửa chuồng lại. Con thỏ rừng nhảy ra và bắt đầu chạy về hướng đồng cỏ. Tôi nghĩ chỉ cần một cú phóng thật mạnh nó sẽ lao thẳng vào đám cỏ cao rồi biến mất mãi mãi. Nhưng nó lại ngồi xuống, hai tai vểnh lên, tường chừng như đang tận hưởng tự do mới tìm lại. Từ các cánh đồng và khu rừng đằng xa vọng lại bao âm thanh chỉ nó mới có thể nghe và hiểu, những mùi và hương thơm chỉ nó mới có thể cảm nhận. Chung quanh chỉ có mình nó ; nó đã bỏ lại cái chuồng đằng sau. 

Bất ngờ trong lòng nó có sự thay đổi. Đôi tai thính nhạy cụp xuống, tự dưng nó thu mình nhỏ lại. Nó nhảy một lần nữa và râu nó vểnh lên, nhưng nó không chạy mất. Tôi huýt sáo thật lớn để mong nó hồi tỉnh lại mà hiểu ra nó đã được tự do. Nhưng nó chỉ quay đầu lại và, như thể đột nhiên già hẳn và co rúm lại, nó chậm chạp trở về chuồng. Dọc đường nó dừng lại một lát, đứng thẳng, hai tai vễnh lên, quay lại ngoái nhìn lần nữa rồi nó đi ngang qua lũ thỏ nhà đang nhìn nó chăm chú và nhảy vào chuồng. 

Tôi đóng cửa chuồng lại, tuy không cần thiết. Giờ đây nó mang cái chuồng ở trong lòng, cái chuồng ấy đã trói buộc trí não và tâm hồn và làm tê liệt các cơ bắp nó. Tự do đã khiến nó khác xa với đám thỏ nhà cam phận, buồn ngủ, giờ đây bỏ nó đi giống như mùi hương cuối cùng dậy lên từ cánh hoa khô nát vụn rồi tan biến theo gió. 

Jerzy Kosinski

Nguyên tác : The Painted Bird, Grove Press / Atlantic Monthly Press 9/8/1995. Tựa đề do người dịch đặt

Trần Quốc Việt dịch chương 19

Jerzy Kosinski (1933-1991 là nhà văn Mỹ gốc Ba Lan.

Chờ Tự do

Vaclav Havel, Trần Quốc Việt dịch 

Lời người dịch :Tên vở kịch nổi tiếng nhất của nhà viết kịch Samuel Beckett là Chờ Godot. Godot là hiện thân của sự chờ đợi vô vọng dằng dặc, là biểu tượng của sự đau khổ về sự khắc khoải chờ đợi điều gì đấy tưởng chừng như không bao giờ đến. Cho nên khi cuộc cách mạng Tiệp Khắc bùng nổ trên đường phố vào năm 1989, người ta không bất ngờ khi thấy những biểu ngữ ghi "Godot ở đây !" và nghe tiếng reo hò trên đường phố "Godot đã đến !" Tự do cuối cùng đã đến !

Đây là trích đoạn bài diễn văn của cựu tổng thống Vaclav Havel đọc trước Viện Hàn Lâm Pháp bàn về hai cách chờ Tự Do.

--------------------------

tudo6

Từ một quốc gia đã chờ đợi tự do suốt bao nhiêu năm dài tôi đến với các bạn hôm nay. Vì vậy tôi mong các bạn cho phép tôi trình bày những ý kiến vắn tắt về hiện tượng chờ.

"Chờ Godot" đến để giải phóng hay cứu thoát là cách chờ đầu tiên trong vô vàn những cách chờ khác nhau. Đa phần chúng tôi chịu đựng ách cai trị cộng sản thường gần như chờ đợi theo cách đầu tiên này. Bị vây hãm, bị đè nén, bị đô hộ trong lòng chế độ toàn trị, nhiều cá nhân đã mất hết tất cả hy vọng tìm ra lối thoát, mất tất cả ý chí hành động và mất cả ý thức rằng họ có thể hành động. Tóm lại, họ mất hy vọng.

Tuy nhiên họ đã không và không thể nào mất nhu cầu hy vọng, vì không có hy vọng cuộc đời mất hết ý nghĩa. Vì vậy họ chờ Godot. Không thể nào ấp ủ hy vọng trong lòng, họ chờ đợi điều gì đấy tựa như sự giải thoát mơ hồ từ bên ngoài. Nhưng Godot không bao giờ đến, chỉ vì Godot không tồn tại. Godot chỉ thể hiện niềm hy vọng. Godot không phải là chính hy vọng, chỉ là ảo vọng. Godot sinh ra từ chính sự tuyệt vọng của chúng ta-miếng vải rách ấy để vá lại tâm hồn tả tơi. Miếng vải vá ấy lại chi chít những lỗ thủng. Đấy là niềm hy vọng của những người không có hy vọng.

Cách chờ cuối cùng trong vô vàn những cách chờ là cách chờ khác. Cách chờ ấy là sự kiên nhẫn và được khích lệ bởi hy vọng rằng phản kháng bằng cách nói lên sự thật là vấn đề nguyên tắc, là điều phải ta nên làm mà không cần đoán liệu phản kháng ấy sẽ đi đến đâu vào ngày mai, ngày mốt hay bao giờ. Cách chờ như thế xuất phát từ niềm tin rằng lập lại sự thật thách thức này tự riêng nó có ý nghĩa, cho dù người ta có nhận thức được sự thật hay không, hay sự thật chiến thắng, hay bị đàn áp đến trăm lần, chỉ mong sao đâm thủng được bức màn dối trá liên tục.

Cách chờ ấy cũng được khích lệ bởi niềm tin rằng hạt giống, một khi đã gieo xuống, sẽ bén rễ và nâỷ mầm vào một ngày nào đó, dù không ai biết khi nào. Cách chờ ấy dạy chúng ta kiên nhẫn chờ, chờ trong tâm trạng hy vọng, không phải là sự thể hiện tuyệt vọng. Khác với chờ Godot là cách chờ vô nghĩa tự dối mình và vì thế phí thời gian, cách chờ thứ hai thật sự có ý nghĩa ; chờ không phải là sự dối lòng ngọt ngào mà là sự thật cay đắng, và thời gian chờ đợi không hoài phí. Chờ cho đến lúc hạt giống tốt nẩy mầm không giống như chờ Godot. Chờ Godot nghĩa là chờ hoa huệ chúng ta không bao giờ trồng nở hoa.

Ta không thể chờ Godot.

Godot sẽ không đến, vì Godot không tồn tại.

Thật ra, ta càng không thể tạo ra Godot. Ví dụ điển hình về Godot được tạo ra-tức một Godot thật sự xuất hiện và vì thế là Godot giả- là cộng sản. Cộng sản thường tuyên bố cứu chúng ta, nhưng cứu cùng chỉ tiêu diệt chúng ta.

Tôi đã từng muốn lịch sử tiến lên như cách trẻ em kéo cây để cho cây mau lớn.

Tôi tin chúng ta phải học chờ như chúng ta học sáng tạo. Chúng ta phải kiên nhẫn gieo hạt giống, chăm chỉ tưới nước và dành cho cây thời gian cần thiết để lớn lên.

Tựa như ta không thể nào lừa cây, ta không thể nào lừa lịch sử. Nhưng ta có thể tưới nước lịch sử. Tưới kiên nhẫn mỗi ngày. Tưới với tất cả sự thấu hiểu, với sự khiêm nhường, và với tất cả yêu thương.

Vaclav Havel

Nguồn : Trích từ Diễn văn của cựu Tổng thống Tiệp Khắc Vaclav Havel đọc trước Viện Hàn Lâm Pháp tại Paris vào ngày 27 tháng Mười, 1992. Bản tiếng Anh của Paul Wilson. Tựa đề của người dịch.

Trần Quốc Việt dịch

Từ tác phẩm "The Art of the Impossible" của Vaclav Havel, nhà xuất bản Mỹ Alfred A. Knoff, 1997, trang 103-108. Người dịch có tham khảo bản lược dịch của báo New York Times, số ra ngày 13 tháng Mười Một, 1992 với tựa đề "Planting, Watering and Waiting"