Nhật Bản là thế? Việt Nam là thế? (NQT-Theo blog Kim Dung)
Nguyễn Trường Tộ chỉ mải mê viết các bản điều trần cho
nhà vua. Trong khi đó Fukuzawa Yukichi tìm cách làm cho cả người
bình dân Nhật hiểu sự lạc hậu của đất nước mình, hiểu được
thế nào là văn minh. Trong khi Nguyễn Trường Tộ chỉ điều trần
với nhà vua về việc thay đổi việc học thì Fukuzawa Yukichi không
chỉ điều trần mà còn vận động thành lập Trường Keiō-gijuku
(Khánh Ứng Nghĩa Thục) về sau trở thành trường đại học hiện đại đầu
tiên và cho đến nay vẫn là một trong những trường đại học uy tín hàng
đầu, nơi đào tạo nhiều nhân tài cho nước Nhật.
Fukuzawa Yukichi (1835 – 1901) được coi là nhà tư tưởng trong cuộc “canh
tân” thời Minh Trị biến Nhật Bản từ quốc gia lạc hậu và cô lập trở
thành cường quốc.
“Đang đọc cuốn “Khái lược văn minh luận” của Fukuzawa Yukichi –
nhà giáo dục học, nhà canh tân của nước Nhật thời Minh Trị
Thiên Hoàng, ngang thời với Nguyễn Trường Tộ. Cuốn sách vừa
được dịch nhân kỷ niệm 150 năm Minh Trị Duy Tân nước Nhật. Mua
từ trước lúc sửa nhà mà bây giờ mới đọc. Trước đã đọc một
số tác phẩm của ông ta nhưng cuốn này quá hay nên đọc một
mạch.
Hồi nhỏ, vẫn nghĩ Fukuzawa Yukichi của Nhật và Nguyễn Trường
Tộ của Việt Nam có những tư tưởng tương đồng, nước Nhật lúc
đó còn nát hơn Việt Nam do tình trạng cát cứ. Thế mà chỉ vài
chục năm, Nhật thành hùng cường mà Việt Nam thì không? Càng
lớn (và càng già?) có lẽ càng hiểu dần. Theo mình đây là các
lý do:
1. Người Nhật ham đọc sách hơn người mình. Trong khi người
mình cam phận, chỉ quan tâm đến những gì thường nhật thì người
bình dân Nhật quan tâm rộng hơn. Lúc bấy giờ dân Nhật chỉ có
35 triệu mà lần xuất bản đầu tiên cuốn “Khuyến học” của
Fukuzawa Yukichi đã bán ra được tới 3,4 triệu cuốn (khoảng hơn 10
người mua 1 cuốn). Điều này cũng có nghĩa đương thời tỉ lệ
người Nhật biết chữ cao hơn Việt Nam. Từ đó đến nay cuốn này
tái bản đến gần trăm lần. Các cuốn sách khác của ông ta cũng
tương tự như thế.
2) Nguyễn Trường Tộ chỉ mải mê viết các bản điều trần cho
nhà vua. Trong khi đó Fukuzawa Yukichi tìm cách làm cho cả người
bình dân Nhật hiểu sự lạc hậu của đất nước mình, hiểu được
thế nào là văn minh. Trong khi Nguyễn Trường Tộ chỉ điều trần
với nhà vua về việc thay đổi việc học thì Fukuzawa Yukichi không
chỉ điều trần mà còn vận động thành lập Trường Keiō-gijuku
(Khánh Ứng Nghĩa Thục) về sau trở thành trường đại học hiện đại đầu
tiên và cho đến nay vẫn là một trong những trường đại học uy tín hàng
đầu, nơi đào tạo nhiều nhân tài cho nước Nhật.
3) Trong khi Nguyễn Trường Tộ thấy việc canh tân bắt đầu từ
nhà vua thì Fukuzawa Yukichi cho rằng nước Nhật muốn độc lập
thì mỗi người dân Nhật phải có tư duy độc lập. Vì vậy dù cả
hai đều hiểu vai trò cốt tử của giáo dục, nhưng tư tưởng giáo
dục của Fukuzawa Yukichi không chỉ là dạy cho người ta kiến thức
hiện đại của Phương Tây mà dạy cho họ có tư duy phê phán, độc
lập trong suy nghĩ.
4) Trong khi Nguyễn Trường Tộ chỉ biết đến những ưu việt của
văn minh Phương Tây thì Fukuzawa Yukichi với cuốn “Thoát Á Luận”
kêu gọi rũ bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, học
tập Phương Tây nhưng giữ bản sắc riêng của người Nhật.
5) Trong khi Nguyễn Trường Tộ chỉ nghĩ đến các cải cách về
giáo dục, kinh tế, kỹ thuật,… thì Fukuzawa ngoài các điều trên
còn tìm hiểu thể chế của các nước Phương Tây (đặc biệt là
Anh). Chính vì vậy, trong khi Việt Nam vẫn duy trì chế độ quân
chủ thì Nhật Bản chuyển sang chế độ quân chủ lập hiến, tuy
vẫn có vua nhưng là xã hội hoạt động theo Hiến pháp và Pháp
luật.
6) Không chỉ các sách của Fukuzawa Yukichi được người Nhật say
mê đọc mà trong vài chục năm nước Nhật mua và dịch rất nhiều
tác phẩm quan trọng trong kho tàng văn minh nhân loại. Người ta
gọi đó là “một cuộc dịch thuật vĩ đại” của người Nhật.
Tóm lại sự hưng thịnh của nước Nhật không chỉ bởi Minh Trị
Thiên Hoàng hay Fukuzawa Yukichi mà bởi tất cả những người Nhật
bình thường nhưng được “mở mắt” bởi tư tưởng khai minh, khai
sáng trong giáo dục của Fukuzawa Yukichi và sự khoáng đạt của
Minh Trị Thiên Hoàng. Đó là sự khác biệt giữa Việt Nam và
Nhật, giữa Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi từ 150 năm trước
đến nay.
Đọc thêm:
‘Khái lược văn minh luận’ – nền tảng lý luận để Nhật thoát nghèo thành cường quốc
Fukuzawa Yukichi – nhà tư tưởng khai sáng Nhật Bản thời
kỳ Duy tân – vạch ra những điều quan trọng để dân tộc Nhật vươn lên hàng
cường quốc.
Thoát Á, Phúc Ông tự truyện, Khái lược văn minh luận, Khuyến học,
Minh Trị Duy tân, Nhật Bản chuyển mình… là những từ khóa liên quan tới
một người được coi là “người Cha” của Nhật Bản hiện đại – Fukuzawa
Yukichi. Ông là nhà tư tưởng của công cuộc Duy tân Minh Trị, người suốt
cuộc đời viết sách, dịch sách, làm báo, lập trường dạy học chỉ nhằm tập
trung khai sáng đất nước và con người Nhật Bản, hướng tới văn minh
phương Tây.
Khái lược văn minh luận là cuốn sách quan trọng của Fukuzawa Yukichi.
Tác phẩm được xem là nền tảng làm thay đổi thế giới quan của người
Nhật, lúc đó vẫn còn tư duy theo lối thủ cựu Nho giáo. Sách có 10
chương, được chia làm sáu quyển kèm theo hai phần phụ lục nhỏ với văn
phong sáng rõ, giản dị.
Từ chương một đến chương ba, sách bàn về cơ sở lý luận của việc thiết
lập cho phương pháp tiến tới văn minh, đặt nền tảng cho việc hiểu về
cách tiếp cận thế giới văn minh cũng như xác định lấy văn minh làm trọng
tâm, mục tiêu phấn đấu. Tác giả bàn về bản chất của văn minh qua hai
khía cạnh: hình thức bên ngoài dễ thấy, bản chất bên trong thì không thể
chỉ ra rõ ràng.
Chương bốn và năm bàn sâu về tri thức và đạo đức của người dân một
nước, mối tương quan tới môi trường của một nước, và mỗi cá nhân trong
đất nước đó. Nếu nước đó là văn minh, tiến bộ thì dù người dân có chút
khiếm khuyết thiệt thòi về trí lực, trí tuệ vẫn có thể phát triển tối đa
khả năng của mình và được hưởng lợi từ nền văn minh đó. Ngược lại, dù
người có trí lực, đạo đức vẹn toàn nhưng sinh ra ở tại một nước chưa
phát triển hay đang phát triển, thế nào cũng có những hạn chế nhất định
trong việc bộc lộ hết khả năng bản thân. Điều này cho tới ngày nay vẫn
còn rất đúng đắn và thực tiễn.
Ở chương sáu và bảy, tác giả bàn về tri (tri thức) và đức (đạo đức)
và mối quan hệ của chúng với sự phát triển nhân cách, trí lực của một
người. Một người có trí tuệ siêu việt nhưng không có đức độ, khó trở
thành một người giỏi giang có thể giúp mình, giúp đời, và đôi khi còn
ngược lại. Cũng như thế, một người có trí lực dồi dào trong việc nghiên
cứu kinh bang tế thế, đi rao giảng khắp thiên hạ nhưng lại không thể nào
lo liệu ổn thỏa cho gia đình nhỏ của mình, cũng không thể nào hoàn hảo
được. Những ví dụ điển hình kiểu như vậy trong chương này rất nhiều và
đa dạng. Từ phân tích về đức, trí mà tác giả bày tỏ những bàn luận về
Thần, Nho, Đạo, Phật, Chúa… cũng như cách nhìn nhận của ông về một mẫu
người có thể đóng góp công trạng để hoàn thành mục tiêu cho cuộc đời
mình và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Trong chương tám và chín, tác giả bàn luận và nhận định về nguồn gốc
văn minh phương Tây và Nhật Bản. Ở phần nhận định về văn minh phương
Tây, tác giả nêu ra sự ảnh hưởng của Giáo hội Thiên chúa giáo với xã hội
phương Tây, nguồn gốc của chính quyền dân chủ, chế độ quân chủ, tinh
thần độc lập tự do của phương Tây, tới những cuộc cải cách tôn giáo và
những dấu hiệu của văn minh… Phần này là tóm tắt của sách Lịch sử văn
minh châu Âu của Francois Guizot được xuất bản tại Nhật Bản vào năm
1829, và tác giả đọc ấn bản năm 1842.
Phần nhận định về nguồn gốc văn minh Nhật Bản, ngoài việc nêu ra cơ
bản những đặc tính của văn minh Nhật Bản, Fukuzawa Yukichi còn nêu bật
những khác biệt to lớn giữa hai nền văn minh này, từ đó chỉ ra những
điểm yếu của văn minh Nhật Bản khi muốn phát triển. Tác giả nêu ra một
nhận định về Nhật Bản đáng quan tâm, đó là: “Học vấn không có quyền lực
mà chỉ tiếp tay cho chuyên chế”, tức là học vấn chỉ dành cho một tầng
lớp trên, dân chúng không được tiếp cận. Ngoài ra, phương Tây chú trọng
học vấn ở mặt thực nghiệm và phổ biến cho toàn dân từ đó khiến cả xã hội
được phát triển. Ngược lại, học vấn ở phương Đông chỉ dùng cho chính
quyền, cho vua quan, tầng lớp trên. Thế nên, tuy Nhật Bản giàu có về tài
nguyên, sản vật, người dân lại thiếu tri thức khôn ngoan để quản lý và
khai thác tài nguyên đó.
Từ những nhận định trên, tác giả kết thúc cuốn sách bằng việc bàn
luận về nền độc lập của dân tộc Nhật Bản. Ai ai cũng lo lắng cho vận
mệnh của đất nước nhưng chưa có giải pháp nào hữu hiệu cả trong bối cảnh
các nước phương Tây hùng mạnh, và các nước xung quanh khu vực của Nhật
đều bị nước ngoài lăm le, đe dọa và đã bị chiếm đóng như Ấn Độ, Trung
Quốc… Để có được độc lập, con đường đi không phải là co vào vỏ ốc, mà là
vượt qua gian khó giao tế được với nước ngoài, mở rộng tri thức, hiểu
biết, phát triển giao thương với họ, từ đó xây dựng độc lập bằng cách
tiến lên văn minh.
Muốn tác phẩm của mình phổ biến rộng rãi, Fukuzawa dùng văn phong
sáng rõ và giản dị nhưng không kém phần sâu sắc. Ngoài ra, sách còn có
hai phần phụ lục, bài Thoát Á luận của Fukuzawa và Những lời dạy thường
ngày của ông dành cho các con. Thoát Á luận do Nguyễn Đức Hùng dịch từ
năm 2005, cơ bản nêu lên sự khẳng định của Fukuzawa rằng con sóng văn
minh phương Tây tràn đến khắp hang cùng ngõ hẻm của thế giới và Nhật Bản
nên tiếp nhận cũng như lợi dụng điều này để phát triển. Từ quan điểm
này, Fukuzawa chủ trương “Thoát Á”. Sau khi nêu ra vị trí địa lý của
Nhật Bản ở gần Trung Quốc, Triều Tiên, chịu ảnh hưởng của nền Nho học
trì trệ, kém phát triển, dẫn tới việc Nhật Bản kẹp giữa hai nước láng
giềng đó. Về cơ bản, ông nhận định nếu Nhật Bản không tìm cách vượt lên,
sẽ cùng chung số phận cay đắng bị chia năm xẻ bảy như hai nước trên.
Fukuzawa cho rằng tốt nhất Nhật Bản nên tách ra khỏi hàng ngũ các nước
châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây.
Phụ lục thứ hai là những lời dạy của Fukuzawa dành cho các con, gồm
chín điều ghi nhớ và 15 lời dạy. Phần này rất ngắn nhưng cho thấy
Fukuzawa coi trọng giáo dục tư chất đạo đức trong sáng, lành mạnh, coi
trọng sự khác biệt, đề cao việc đọc sách, tự lực, tự học, tự vươn lên
cho các con mình. Những lời dạy còn hé lộ một cốt cách khiêm cung, giản
dị với trái tim trong sáng, thương yêu gia đình và mọi người, trọng các
giá trị gia đình. Fukuzawa là một người rất Nhật Bản dù cả đời hướng tới
và vận động cả nước Nhật hướng tới văn minh phương Tây.
Sau 150 năm gạn đục khơi trong và phát triển, Nhật Bản đã trở thành
một cường quốc, vượt xa những nước láng giềng Á châu về mức độ phát
triển cả về kinh tế, xã hội và văn minh. Tinh thần ham học hỏi điều mới
lạ và tốt đẹp của thế giới vẫn không ngừng ở dân tộc Nhật Bản. Điều
Fukuzawa mong muốn – Nhật Bản sẽ hướng tới để trở thành một quốc gia văn
minh – đã thành hiện thực từ lâu. Hơn thế nữa, Nhật Bản không chỉ học
hỏi thế giới mà còn quay trở lại gìn giữ những giá trị truyền thống lâu
đời của họ, tiếp thu văn minh nhân loại nhưng cũng đồng thời gìn giữ và
phát triển tiếp những giá trị truyền thống kiến tạo nên khí chất, tinh
thần người Nhật hiện đại.
Linh Lan
Nguồn: VnExpress