Cùng nhau thoát khỏi kịch bản Romania (Chu Tuấn Anh)

Một câu hỏi cần đặt ra là họ có thể làm gì để tránh một bi kịch xảy ra cho bản thân mình? Câu trả lời hiển nhiên nhất là cần phải ủng hộ và yểm trợ cho lực lượng đối lập dân chủ – một lực lượng chính trị đại diện cho một cố gắng kết hợp tự thân trong lòng đất nước Việt Nam để chuyển tiếp đất nước về dân chủ trong trật tự, ôn hòa, và hòa giải dân tộc nhằm đảm bảo một chỗ đứng của đất nước trong một Kỷ nguyên mới của nhân loại.
Chu Tuấn Anh
Đừng bi quan về viễn cảnh dân chủ hóa

Nhiều người bi quan về viễn cảnh dân chủ hóa khi chứng kiến một bối cảnh thế giới hỗn loạn như hiện nay. Đầu tiên, người ta nhìn thấy sự suy giảm của các nền dân chủ trưởng thành ở khắp châu Âu và sự triệt thoái của Hoa Kỳ khỏi vai trò lãnh đạo của thế giới. Một số nền dân chủ có nhiều triển vọng như Ấn Độ hay Brazil cũng đều gây thất vọng lớn. Ngay cả một nhà nước vốn được nhìn nhận như thành trì dân chủ trong khu vực Trung Đông như nhà nước Do Thái cũng đã gây ra nhiều thiệt hại cho ổn định và hòa bình tại khu vực. Các cố gắng hợp tác trên thế giới đang có dấu hiệu suy giảm ở nhiều cấp độ khác nhau, nhưng trầm trọng nhất là trong lĩnh vực bảo đảm trật tự an ninh toàn cầu. Có phải viễn cảnh dân chủ hóa đang ngày càng xa dần?
Chúng ta không nên quên rằng nhìn chung các phong trào dân chủ đã đi lên rất nhanh trong những hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Chẳng hạn, phong trào dân chủ hóa thành công nhất trong lịch sử loài người gắn liền với thời kỳ chiến tranh lạnh. Đó là một thời kỳ rối ren với sự phân cực và các cuộc chiến ủy nhiệm rất khốc liệt (có tính nội chiến và ý thức hệ) trong nội bộ các quốc gia vừa và nhỏ ở Đông Nam Á, Trung Đông, và Phi Châu. Cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt đã chỉ được ngăn chặn bằng những cố gắng hòa hoãn giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô để cả hai không gây chiến với nhau trực tiếp.
Sự thành công đó không chỉ là sự thắng thế của các lực lượng dân chủ và sự sụp đổ của các chế độ độc tài mà còn là sự áp đảo của dân chủ như một mô hình của tăng trưởng và thịnh vượng.
Thành công thấy rõ nhất là công thức Tây Âu khi một mô hình dân chủ cho phép tăng trưởng có phẩm chất về mặt kinh tế và ổn định thể chế chính trị sau chiến tranh thế giới thứ hai. Chẳng hạn nước Đức đã sụp đổ hoàn toàn và bị chia đôi với thân phận là một nước thua cuộc. Tuy nhiên khi theo đuổi mô hình dân chủ, Tây Đức đã vươn lên và trở thành một nền kinh tế giàu mạnh vào những năm 1990 khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc. Sau khi đạt mức thu nhập cao, họ vẫn tăng trưởng GDP ở mức 5%, chất lượng tăng trưởng không chỉ ổn định mà còn không gắn liền với lạm phát (non-inflationary growth, hay tăng trưởng thực chất/real growth) 1. Một thành công ít được nhắc tới hơn là “phép màu Đông Á”, bao gồm Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc, khi các quốc gia này vươn lên nhanh chóng, tạo nên một cuộc đua tăng trưởng gắn liền với tiến trình dân chủ hóa 2.
Tất cả những ‘phép màu’ đó đều được diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng ngặt nghèo. Tây Âu là ‘tiền tuyến’ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản với nguy cơ bất ổn và xung đột thường trực. Trong khi đó Đài Loan gần như bị cô lập trên trường quốc tế và có nguy cơ bị Trung Quốc đại lục xâm lược, còn Hàn Quốc luôn trong tình trạng phải cảnh giác vì chiến tranh có thể trở lại. Đó là những bằng chứng lịch sử cho thấy dân chủ vẫn đi lên trong những hoàn cảnh biến động và thử thách nhất.
Nhìn lại một giai đoạn phát triển phong trào xã hội dân sự?

Nhìn lại một giai đoạn phát triển phong trào xã hội dân sự?
Thực vậy, một trật tự thế giới ‘ổn định giả tạo’, đặt hợp tác kinh tế thuần túy lên trên đạo đức chính trị và nhân quyền, bắt đầu từ những năm đầu thập niên 1990 là nguyên nhân gây ra những hỗn loạn trên thế giới hiện nay. Khi trật tự thế giới “ổn định giả tạo” này chấm dứt, một giai đoạn đầy biến động xuất hiện. Nhưng nếu quan sát kỹ có thể thấy dân chủ hóa sẽ trở lại sau một thời gian dài khựng lại kể từ Mùa Xuân Ả Rập năm 2010.
Trong một giai đoạn phong trào dân chủ hóa khựng lại, các nhà nước dân chủ một mặt lựa chọn im lặng trước các vấn đề dân chủ và nhân quyền tại các nước độc tài còn lại trên thế giới. Mặt khác, họ đã gián tiếp yểm trợ cho các phong trào xã hội dân sự thông qua các tổ chức phi chính phủ (NGOs) hoạt động về quyền con người và những lĩnh vực phát triển xã hội như môi trường, bình đẳng giới, chính phủ minh bạch, v.v… Từng được coi là ngọn cờ đầu của phong trào dân chủ và nhân quyền, nhưng hiện nay chính những người hoạt động trong mảng NGOs cũng đã phải nhìn nhận là phong trào đó đã chấm dứt.
Nguyên nhân trực tiếp nhất là do các chính quyền Phương Tây đã cắt giảm các nguồn tài trợ quốc tế để phục vụ cho những chính sách đối nội hoặc chi tiêu quốc phòng. Xu hướng này đã có từ trước khi Donald Trump tái đắc cử, đặc biệt khi cuộc chiến Nga – Ukraine nổ ra. Trong khi đó nguồn vốn tài trợ từ khối doanh nghiệp và tập đoàn đa quốc gia cho các hoạt động xã hội dân sự của NGOs hầu như không đáng kể.
Nhưng cũng có những nguyên nhân sâu xa phong trào này không đạt được những hiệu quả để trở thành “ngọn cờ đầu” của dân chủ và nhân quyền như thế giới tiến bộ mong muốn. Nhu cầu được hoạt động hợp pháp, tiếp cận các nhóm quần chúng, đối tượng hưởng lợi trong xã hội đã khiến các tổ chức xã hội dân sự và NGOs có xu hướng lựa chọn cộng tác với chính quyền hơn là đối kháng. Mặt khác, khi cảm thấy không gian xã hội dân sự đang lấn át chế độ, các chính quyền độc tài thường dùng lý do ‘nhận viện trợ từ nước ngoài’, ‘cộng tác và chia sẻ thông tin với các tổ chức nước ngoài’ để ‘ghi danh’ những tổ chức xã hội dân sự như các tổ chức ‘nước ngoài’ và ‘không có tính chính đáng’ với dân tộc so với những tổ chức chính trị-xã hội được chế độ nhìn nhận. 3
Sự chấm dứt của phong trào xã hội dân sự và NGOs không hẳn là một tín hiệu xấu cho dân chủ hóa. Những hình thức đấu tranh dân chủ theo hướng dàn trải, thiếu trọng tâm, thiếu tổ chức lãnh đạo, “độc lập” hơn là “đối lập” như mô hình xã hội dân sự và NGOs không thể thoả mãn đòi hỏi của phong trào dân chủ hoá. Điều này không có nghĩa là phủ nhận vai trò của xã hội dân sự, mà nên được hiểu là đã đến lúc phải chấm dứt một cố gắng gượng gạo, tản mát, thiếu trọng tâm, với mục tiêu “dần thay đổi chính trị” trong một xã hội độc tài toàn trị. Một cố gắng cần phải có trong bối cảnh hiện tại là xây dựng một kết hợp chính trị mang tính đối kháng hơn, trực diện hơn. Cố gắng này phải là cố gắng tự thân, có trọng tâm, thông qua một tư tưởng và dự án chính trị để có được một đối lập có tầm vóc và đối trọng tương xứng với chế độ độc tài.
Những kẻ độc tài đang cô độc

Các chế độ độc tài đều đang cố gắng động viên nhau rằng sẽ có một ‘cửa hẹp’ để họ có thể thoát hiểm khi gặp khủng hoảng. Họ nghĩ rằng họ vẫn có thể tồn tại trong một bối cảnh thế giới và trong nước không thuận lợi khi tiếp tục đàn áp những tiếng nói đối lập và tổ chức xã hội dân sự trong lòng xã hội.
Nhưng thực tế, dù có những lúc các chế độ độc tài có một mặt trận thống nhất, họ cũng không thể giành được thắng lợi. Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản bị giải thể sau năm 1989, thế giới đã không còn một mặt trận độc tài thống nhất nữa. Khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine, Putin đã có thể lôi kéo được Belarus làm đồng minh trực tiếp và một vài nước như Trung Quốc, Triều Tiên, Serbia, hay ngay cả Hungary, làm đồng minh gián tiếp. Tuy vậy, sự lôi kéo của Putin không đạt được quy mô “liên minh ý thức hệ” như Hiệp ước Warsaw mà Liên Xô đã lập ra trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và trực tiếp dùng để phát động một cuộc chiến tranh can thiệp vào Tiệp Khắc để ngăn chặn phong trào Mùa Xuân Prague. Chế độ sa hoàng thời hiện đại Nga của Putin gần như bị cô lập và khinh bỉ trên trường quốc tế và đang chờ đợi những ngày cuối cùng.
Cả Trung Quốc, Việt Nam – đại diện cho những chế độ cướp bóc, độc tài về chính trị nhưng cởi mở về kinh tế – cũng đang đi đến hồi cuối của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc đang bị cô lập gần như tuyệt đối, trong khi vấn đề hợp tác và đồng minh với Việt Nam gần như không còn đặt ra nếu Việt Nam vẫn duy trì chế độ độc tài. Những ngày gần đây, khi đi sang Hàn Quốc đặt vấn đề hợp tác và liên minh về kinh tế, có lẽ ông Tô Lâm cũng ý thức được rằng giờ mình phải đi tranh thủ thế giới hơn là thế giới sẽ tranh thủ Việt Nam.
Nhà cải cách Nicolae Ceaușescu?

Nhưng ‘cải cách’ có phải là một cách để cứu nguy chế độ không? Có nhiều lý do để trong một giai đoạn người ta xem Nicolae Ceaușescu như một nhà ‘cải cách’. Ông ta vốn là một người có lập trường ‘thoát Liên Xô’; cụ thể ông ta phản đối cuộc xâm lược năm 1968 của Liên Xô và còn phát động biểu tình tại Bucharest để chống lại hành vi xâm lược của Liên Xô. Ông ta không kiêu hãnh sự ưu việt của ‘kỹ nghệ Liên Xô’, ngược lại Ceaușescu chấp nhận phải áp dụng những kỹ nghệ của phương Tây. Cả Johnson, Nixon đều coi Ceaușescu là ‘người cộng sản yêu thích’ của họ, phớt lờ những vi phạm nhân quyền, đàn áp trong chính sách đối nội của Ceaușescu. 4 5
Về chính sách đối nội, Ceaușescu cũng từng được nhìn nhận là nhà cải cách vì có một lập trường ‘không chính thống’ so với học thuyết Marx- Lenin với hình mẫu lãnh đạo thân Liên Xô thường thấy ở Đông Âu. Hơn nữa, ông ta luôn nhấn mạnh về nhu cầu ‘hiện đại hóa’, đổi mới ‘khoa học-kỹ nghệ’ và mạnh tay trong các chính sách kinh tế. Tuy nhiên, sự cải tổ của Ceaușescu là một chuỗi các biện pháp duy trì phát triển kinh tế tập trung và cải cách hành chính vô cùng thô bạo. Có thể kể đến như chính sách phát triển công nghiệp nặng ồ ạt để đạt những kỷ lục về sản lượng đã đẩy quần chúng vào cảnh khốn khó. Trong quy hoạch nông thôn, Ceausescu đặt ra chỉ tiêu phải giảm số đơn vị cấp làng từ 13,000 xuống còn 5,000-6,000 vào năm 2000 (để thành lập những đơn vị hành chính quy mô hơn) đẩy người dân vào cảnh mất nhà, hủy hoại cảnh quan môi trường quốc gia 6. Về lý luận tập trung kinh tế-xã hội (centrala), Ceaușescu phát biểu rằng ‘Không ai có quyền xây dựng và phát triển hay sản xuất trái kế hoạch của chế độ’ 7.
Sự cải tổ không gắn liền với chiều hướng nhìn nhận về dân chủ, nhân quyền chỉ khiến bộ mặt của chính quyền Ceaușescu trở nên quá xấu xí và tàn bạo trong mắt quần chúng và thế giới để chính quyền phương Tây có thể mãi nhắm mắt làm ngơ. Chẳng một ngôn từ “cải cách” nào còn có thể biện minh cho những vi phạm nhân quyền càng ngày càng nhiều hơn. Những bài báo, bản tin càng ngày càng gay gắt và thiếu thiện chí trên các tờ báo và trên đài Âu Châu Tự Do từ chỗ tưởng như vô hại bỗng trở thành những chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài tiễn đưa chế độ cộng sản Romania.
Chế độ cộng sản Romania của Ceaușescu là chế độ cộng sản sụp đổ muộn màng nhất Đông Âu và cũng là chế độ bị sụp đổ tàn bạo nhất. Bạo lực không đến từ những người biểu tình ôn hòa mà chính từ cuộc thanh trừng nội bộ trong chế độ của ông ta: 1,142 người chết, 3,138 người bị thương, và chính vợ chồng Ceaușescu bị hành quyết trong cảnh đổ máu. Đó là một tai họa cho cả đất nước và cá nhân Ceaușescu.
Nhưng biết trách ai bây giờ. Lịch sử đã ghi lại ‘cho đến khi cuộc Cách Mạng 1989 nổ ra, không có một phong trào đối kháng nào đến từ xã hội. Chỉ tồn tại một vài cuộc biểu tình cá nhân hoặc một số nhóm nhỏ bị đàn áp hung bạo bằng cách xử trực tiếp trước thị chúng hoặc bởi các tòa án quân sự’. Sự tàn bạo tuyệt đối và ngăn cấm sự hình thành của các tổ chức chính trị đối lập của Ceaușescu đã gây ra hậu quả khiến Romania chuyển tiếp trong bạo lực. ‘Thời đại Hoàng Kim’ Ceaușescu chỉ còn lại là một vở bi hài mang tên ‘Câu truyện từ Thời Hoàng Kim’ (Tales from the Golden Era) lột tả sự thối nát và hoang tàn của 15 năm cuối cùng của triều đại cộng sản Romania dưới thời Ceaușescu.
Bài học cho Việt Nam
Những ngày cuối cùng của chế độ Cộng Sản Việt Nam cũng đã xuất hiện khi nhà độc tài Tô Lâm, một nhân vật đến từ ngành công an, với những hứa hẹn cải cách để đưa đất nước vào một Kỷ Nguyên Vươn Mình. Để rồi, phong trào cải cách ông Tô Lâm càng được nhìn rõ như những chính sách thô bạo, gieo mầm cho sự hỗn loạn, với đàn áp và bạo lực gia tăng hơn bao giờ hết.
Đây là thời điểm để tố giác hành động của Tô Lâm vì đã lựa chọn con đường của Ceaușescu, mở ra một viễn cảnh vô cùng đen tối cho tương lai của đất nước. Tôi cũng đã cảnh báo nhiều lần lẽ ra lực lượng công an Việt Nam – một lực lượng đã gây ra quá nhiều tội ác và bạo lực – cần được hướng dẫn để tiến hành xin lỗi và hòa giải với những nạn nhân của bạo lực và đất nước Việt Nam. Xu hướng công an trị đã đặt công an trở thành lực lượng cầm quyền trong một bối cảnh đất nước rối bời và bất ổn như hiện tại. Điều đó cũng khiến họ trở thành đối tượng chính cho những sự thù ghét và oán hận trong xã hội.
Sau một giai đoạn dài áp bức phong trào xã hội dân sự và những tiếng nói ôn hòa, dù chỉ là đơn lẻ trong xã hội, dưới thời ông Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng, đất nước chỉ còn bạo lực của những kẻ cầm quyền và sự phẫn nộ từ quần chúng nhân dân. Có lẽ những người cầm quyền đảng Cộng Sản đã quá tối tăm khi không hiểu rằng những sự phản kháng ôn hòa của phong trào xã hội dân sự không những không gây hại cho đất nước mà đó là những sinh hoạt hoàn toàn lành mạnh trong xã hội mà mọi chính quyền dân chủ mong muốn có được để giảm tải chức năng và nguồn lực cần phải huy động của một chính quyền. Khi đàn áp dã man xã hội dân sự, họ đang đặt đất nước vào thế một bên là một thiểu số cầm quyền, một bên là quần chúng, nhìn nhau như kẻ thù và ở thế đối kháng trực tiếp.
Những đảng viên của chế độ, lực lượng công an, tuyên giáo cần ý thức được sự tai hại này. Không thể tiếp tục dùng những thứ ngôn ngữ tuyên truyền bất xứng, trái ngược với sự thực và lẽ phải. Một câu hỏi cần đặt ra là họ có thể làm gì để tránh một bi kịch xảy ra cho bản thân mình? Câu trả lời hiển nhiên nhất là cần phải ủng hộ và yểm trợ cho lực lượng đối lập dân chủ – một lực lượng chính trị đại diện cho một cố gắng kết hợp tự thân trong lòng đất nước Việt Nam để chuyển tiếp đất nước về dân chủ trong trật tự, ôn hòa, và hòa giải dân tộc nhằm đảm bảo một chỗ đứng của đất nước trong một Kỷ nguyên mới của nhân loại. Đối lập dân chủ không phải là kẻ thù của đảng viên chế độ cộng sản. Lực lượng an ninh và tuyên giáo cần biết, chúng tôi là những người anh em, đồng bào, và là một lối thoát. Không có gì sai trái khi những người cộng sản chủ động tham gia giải tán chế độ cộng sản trong ôn hòa khi nó đã quá thối nát, bất dung và trở thành một mối nguy cho đất nước.
Một cố gắng kết hợp chính trị đáng kể đó là Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên.
Chu Tuấn Anh
(14/08/2025)
Tham khảo:
- The Economic Consequences of German Unification: The Impact of Misguided Macroeconomic Policies. ↩︎
- Những gì cần phải nói với nhau trong một giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động. ↩︎
- The End of the Age of NGOs? ↩︎
- The Fall of Romanian Communism. PART I: the political and economic background. ↩︎
- CEAUSESCU`S ROMANIA WAS ONCE A PET OF U.S. ↩︎
- Rural Systematization: A Radical Campaign of Rural Planning under Ceausescu Regime in Romania. ↩︎
- II The Economic System Before the Beginning of Reform. ↩︎